Chương thứ hai: Vật Phẩm Hiếm Trong Rượu
Thứ Năm, 19 tháng 6, 2014
Từ xưa đến nay, rượu là một loại
thức uống của người trong nước thích dùng. Chúc mừng ngày tết, thân
bằng gặp nhau, tiệc mời tân khách, mừng ngày được mùa, tang hôn cưới
gã đều thiếu không được nó. Từ truyền thuyết Nghi Địch, Đỗ Khang làm
rượu đến Lưu Linh say rượu biến thành tiên khá là thần bí, lại đến
giai thoại Lý Bạch “Đấu tửu thi bách thiên”, “Túy thảo hạ man thư”; từ
hào phóng của Tô Thức “Đem rượu hỏi trời xanh” đến không biết làm sao
được của Chu Hiến Vương “Túy lý lạc thiên chân”……mãi đến khúc nghệ
“Túy tửu” của bậc thầy Hậu Bảo Lâm tiên sinh trêu ghẹo trong tiết mục
tướng thanh (một loại hình nghệ thuật như hề mồi, hề gậy trong chèo
tuồng VN hoặc tấu hài gần đây), đều thể hiện nội dung văn hóa tửu
sâu đậm Trung Quốc.
Trong cuộc sống thường ngày, phàm là
thức uống có cồn, đều có thể kèm thêm danh xưng của rượu. Rượu rõ
ràng có thể gọi là mặt hàng đa dạng, theo đánh giá rượu của thế
giới ngày nay có hơn 10 vạn loại, đại thể có mấy phương pháp phân
loại như sau: (1) lấy màu sắc của rượu phân biệt, phân làm rượu trắng,
rượu trái cây v.v…; (2) lấy số độ của rượu phân biệt, chia làm rượu
cao độ, rượu trung độ, rượu thấp độ; (3) lấy nguyên liệu nấu rượu
làm phân biệt, phàm là rượu lương thực, rượu nho, rượu quả lộ và
rượu phối chế ở trong rượu thêm vào hương liệu nhất định v.v….; (4) theo
hàm lượng đường ít nhiều của rượu phân biệt, phân là loại ngọt,
loại ngọt lưng chừng, loại khô, loại khô nữa chừng v.v….; (5) dựa theo
đặc điểm công nghệ sản xuất trong quá trình nấu rượu để phân biệt,
nếu như nguyên liệu lên men hoàn tất, dùng phương pháp ép nén đem chất
nước, cặn tách ra, rượu như thế gọi là rượu nấu, cũng gọi là rượu
chưng cất. Ngoài ra, còn có rượu phối chế (cũng gọi là rượu tổng
hợp), thông thường là dùng rượu chưng cất hoặc sử dụng tinh dầu phối
hợp để chế thành hương liệu, thuốc v.v…..
Theo khảo chứng: Phát minh lịch sử
nấu rượu Trung Quốc xa xưa từ sớm ở tại văn tự, rất có thể có thời
gian 8000 năm, trải qua quá trình phát triển dài dằng dặc này, rượu
của Trung Quốc đã phát triển trở thành có 5 loại lớn, tức là rượu
trắng, rượu vàng, bia, rượu trái cây (chủ yếu là rượu nho), rượu
điều chế 5 loại lớn, hệ thống rượu Trung Hoa có hơn cả ngàn chủng
loại.
I/ Rượu trắng.
Rượu trắng Trung Quốc để nước rượu trong
suốt trong vắt, tính chất tinh khiết, không vẩn đục, khẩu vị thơm nồng nàn, dịu
nhẹ dịu êm, tính kích thích tương đối mạnh, sau khi uống hương vị còn lại, dư
âm dài lâu mà nổi tiếng thế giới. Xưa nay khởi nguồn có chung quan điểm về rượu
trắng Trung Quốc có Đông Hán, Đường Đại, Tống Đại và Nguyên Đại 4 loại ý kiến,
trong đó lấy ý kiến của Tống Đại tương đối có tính đại diện. Cũng chính là nói
bắt đầu tính từ Tống Đại, sản xuất rượu trắng Trung Quốc có lẽ đã có lịch sử gần
ngàn năm, rượu trắng Trung Quốc với tư cách là 1 trong 6 loại rượu chưng cất có
tiếng thế giới (5 loại khác là rượu Brandy, rượu Whisky, rượu Rum, rượu vodka,
rượu Gin), công nghệ chế tạo của nó so với rượu chưng cất các nước thế giới phức
tạp, nguyên liệu cũng có đủ loại đủ kiểu, phong vị đặc thù từng trải là quốc
gia khác không thể so sánh được. Kỹ thuật nấu rượu trắng phát triển đến ngày
nay, sắc rượu rượu trắng sản xuất ra trắng tinh óng ánh, vô sắc trong suốt,
hương thơm hợp với lòng người, còn có rượu 5 loại hương mỗi loại có đặc sắc
riêng, hương thơm đầy tràn, hương còn lại không hết, khẩu vị đậm đà dịu êm, ngọt
trơn thanh lạnh, thể rượu di chuyển hài hòa, dư âm dài lâu, vị ngon của nó sướng
miệng tinh khiết, biến đổi vô cùng có thể cho người ta cảm giác vui vẻ sung sướng
và hạnh phúc cực đại.
Rượu trắng ở các vùng Trung Quốc đều có sản
xuất, nhưng rượu trắng của Sơn Tây, Tứ Xuyên và Quý Châu những nơi này là nổi
tiếng. Danh tửu của vùng khác mỗi nơi có phong cách đặc biệt nổi bật riêng. Sản
phẩm rượu trắng đa dạng, cách chế tạo và phong vị mỗi nơi đều có kiểu cách
riêng, nói chung có thể chia làm:
Phân biệt theo nguyên liệu nấu rượu.
Rượu trắng lương thực.
Rượu lương thực chính là lấy ngô, cao
lương, tiểu mạch, đại mạch v.v…làm nguyên liệu chủ yếu ủ chế mà thành rượu trắng.
Đại đa số rượu trắng Trung Quốc đều là rượu lương thực, rất nhiều rượu trắng
Trung Quốc chất lượng tốt đều thuộc về rượu loại này.
Rượu trắng khoai khô.
Rượu loại khoai chính là lấy khoai lang,
khoai tây và củ mì làm nguyên liệu ủ chế mà thành. Cây trồng loại khoai chứa
nhiều tinh bột và thành phần đường, dễ chưng nấu hồ hóa, tỉ lệ rượu ra cao so với
rượu trắng lương thực, nhưng chất lượng không như rượu trắng lương thực, cho
nên rượu loại này đa số chỉ là rượu trắng bình thường.
Rượu trắng nguyên liệu khác.
Dùng sản phẩm nông nghiệp phụ chứa nhiều
tinh bột và thành phần đường và thực vật mọc hoang làm nguyên liệu ủ chế mà
thành, như củ cải đường, mật đường, đường gạo, đường cao lương, mía, phục linh
đất, rễ sắn dây v.v…chất lượng rượu của loại này không như rượu trắng lương thực
và rượu trắng khoai khô.
Phân biệt theo công nghệ nấu rượu.
Rượu trắng cách trạng thái rắn.
Rượu trắng cách trạng thái rắn là công nghệ
truyền thống chỉ Trung Quốc có, là kỷ thuật sản xuất độc nhất vô nhị trên thế
giới. Rượu trắng cách trạng thái rắn chính là chọn dùng đường hóa trạng thái rắn,
lên men trạng thái rắn và công nghệ truyền thống chưng cất trạng thái rắn phối
hợp chế tạo thành rượu trắng. Đặc điểm chủ yếu của nó là chọn dùng sản xuất
cách ngắt quảng, cách mở rộng, còn chọn dùng loại nhiều vi khuẩn hổn hợp lên
men; lên men đường hóa nhiệt độ thấp chưng nấu nhiệt độ thấp; chọn dùng phối hợp
bả để điều tiết nồng độ, độ chua tinh bột phôi rượu; chõ thùng chưng cất, như
Mao Đài Tửu, Ngũ Lương Dịch Tửu v.v…
Rượu trắng cách kết hợp trạng thái rắn.
Rượu loại này là gạo làm nguyên liệu, men
nhỏ làm chất lên men đường hóa, trước tiên ở dưới điều kiện trạng thái rắn thêm
vi khuẩn đường hóa, sau khi thêm nước lại ở dưới nữa trạng thái rắn, nữa trạng
thái lỏng lên men sau đó chưng cất chế thành rượu trắng, như Quế Lâm Tam Hoa tửu
và Quảng Đông Ngọc Băng Thiêu Tửu v.v….
Rượu trắng cách trạng thái lỏng.
Rượu trắng cách trạng thái lỏng chính là
chọn dùng lên men trạng thái lỏng, công nghệ chưng cất trạng thái lỏng chế
thành rượu trắng, bao gồm một bộ pháp rượu trắng lên men trạng thái lỏng, rượu
trắng hương chuổi và rượu trắng nhào đổi trạng thái rắn. Rượu trắng lên men trạng
thái lỏng một bộ pháp là dùng gạo v.v… làm nguyên liệu, dưới trạng thái lỏng
thêm vào chất lên men đường hóa, chọn dùng vừa đường hóa vừa lên men, công nghệ
chưng cất trạng thái lỏng chế thành rượu trắng. rượu trắng hương chuổi là lấy cồn
được dùng làm thức ăn làm rượu cơ sở sản xuất cách trạng thái lỏng, lợi dụng
phôi rượu cách lên trạng thái rắn tiến hành hương chuổi mà chế thành rượu trắng,
như rượu trắng thủ công Sơn Đông. Rượu trắng nhào đổi trạng thái rắn là lấy cồn
được dùng làm thức ăn làm rượu cơ sở sản xuất cách trạng thái lỏng, dùng rượu
trắng sản xuất cách trạng thái rắn tiến hành nhào đổi mà chế thành rượu trắng.
Công nghệ sản xuất rượu trắng cách trạng thái lỏng có tỉ lệ rượu ra cao, cường
độ lao động thấp, tỉ lệ sản xuất lao động cao, đối với nguyên liệu thích ứng loại
đặc điểm cường tính.
3. Phân loại theo chủng loại lên men dùng
nấu rượu.
(1) Rượu trắng cách men to.
Lấy men to (cũng gọi là men lúa mạch, thực
ra là một loại chất sơ chế, do vi sinh vật tự nhiên sinh sôi mà thành) làm chất
đường hóa và chất lên men dùng nấu rượu. Do hình dáng kỳ lạ hình viên gạch to
mà có tên. Phôi rượu sau khi trải qua chưng cất thành rượu trắng, có hương men
thơm ngào ngạt, khẩu vị đậm đà, sau khi uống đặc điểm vị ngọt quay trở về. Rượu
nấu cách men to đa số là danh tửu và rượu chất lượng tốt. Nhưng do hao phí
lương thực, chu kỳ sản xuất dài và các loại nguyên nhân, phát triển bị hạn chế
nhất định, hơn nữa giá cả không phỉ.
(2) Rượu trắng cách men nhỏ.
Lấy men nhỏ (cũng gọi là men gạo, đối lập
với men to mà nói, lại thêm vào đủ loại dược liệu mà lại gọi là men thuốc hoặc
rượu thuốc) làm chất đường hóa và chất lên men dùng nấu rượu. Rượu này thích hợp
sản xuất nơi khí hậu tương đối cao, cảm giác miệng có một loại mùi thơm và ngọt
thuần khiết thanh nhã, nhưng không như mùi hương men to ngào ngạt.
(3) Rượu trắng cách men trấu.
Lấy men trấu (cũng gọi là men nhanh, chính
là do chu kỳ sản xuất ngắn, nó là dùng võ trấu làm nguyên liệu, do sức người
nuôi cấy mà thành) làm chất đường hóa, vi khuẩn men lên men mà thành. Lấy tỉ lệ
rượu ra cao, tiết kiệm lương thực và chu kỳ sản xuất ngắn làm đặc điểm, nhưng
chất lượng rượu không như rượu men to và rượu men nhỏ.
Men nhỏ, men to hợp chế rượu trắng.
Trước tiên dùng men nhỏ, sau đó dùng men
to nấu tạo thành, phong cách chất lượng độc đáo.
4.Phân biệt theo chất lên men đường hóa.
(1) Rượu men to.
Rượu men to là lấy tiểu mạch, đại mạch, đậu
hà Lan v.v….làm nguyên liệu, thông qua men to nuôi cấy vi sinh vật tự nhiên chế
thành làm chất lên men đường hóa, chọn dùng công nghệ lên men tự nhiên cách mở
rộng vừa đường hóa vừa lên men sản xuất ra rượu trắng. Men to lại chia làm men
nhiệt độ cao, men nhiệt độ trung bình, men nhiệt độ thấp. Men nhiệt độ cao chủ
yếu dùng cho phối hợp chế tạo rượu trắng loại hương ngâm, men nhiệt độ trung
bình chủ yếu dùng cho phối hợp chế tạo rượu trắng loại hương dễ chịu, tuyệt đại
đa số xưởng rượu danh tiếng tốt đều chọn dùng men nhiệt độ cao. Lên men của rượu
men to thời kỳ tương đối dài, thời gian cất giữ tương đối lâu, cường độ lao động
lớn, tinh bột tỉ lệ rượu ra thấp, giá thành cao. Thông thường rượu danh tiếng tốt
nhà nước đều là rượu men to, như Mao Đài tửu, Ngũ Lương Dịch Tửu, Lưu Linh Túy
Tửu v.v….
(2)Rượu men nhỏ.
Rượu men nhỏ là lấy gạo, tiểu mạch, võ trấu
v.v…làm nguyên liệu, tiêm chủng vi khuẩn thuần khiết chế thành men nhỏ làm chất
lên men đường hóa phối chế mà thành rượu trắng, thông thường chọn dùng đường
hóa cách trạng thái rắn, lên men thể hóa lỏng, chưng cất. Thời kỳ lên men của
rượu men nhỏ tương đối ngắn, lượng men dùng so với men to ít, tinh bột tỉ lệ rượu
ra nhiều, thiết bị và dụng cụ tương đối đơn giản, tiện cho sản xuất cơ giới hóa.
Mùi vị rượu thành phẩm tương đối là tinh khiết, thoải mái, êm dịu. Sản lượng rượu
trắng men nhỏ ước định chiếm 1/6 tổng sản lượng rượu trắng cả nước, như Tam Hoa
Tửu, Ngọc Băng thiêu, Đổng tửu v.v….đều thuộc về rượu men nhỏ.
(3)Rượu men trấu.
Rượu men trấu là dùng võ trấu làm nguyên liệu
tiêm chủng loại vi khuẩn thuần khiết chế thành men trấu, và phụ trợ lấy vi khuẩn
men làm chất lên men đường hóa ủ chế mà thành rượu trắng. Đây là sau giải phóng
trên cơ sở cách làm Yên Đài phát triển lên, sản xuất cách này thời gian lên men
của rượu trắng tương đối ngắn, giá thành sản xuất tương đối thấp, tỉ lệ rượu ra
tương đối cao, trở thành đa số xưởng rượu chọn làm chổ dùng. Sản lượng rượu của
loại hình loại này lớn nhất, lấy quần chúng làm đối tượng tiêu thụ.
Phân biệt theo loại hương của rượu.
Rượu trắng loại hương ngâm.
Cái gọi là hương ngâm, chính là có một phần
tương tự một loại vị hương ngâm của loại đậu lúc lên men phát ra. Đặc trưng của
loại rượu này là: hương ngâm nổi bật, u nhã mịn màng, thể rượu phong phú đậm
đà, khẩu vị dài lâu, thơm mà không đẹp, thấp mà không nhạt. Mao Đài Tửu, Lang Tửu
chính là thuộc về đại diện điển hình của loại rượu này, và còn có đặc điểm lưu
hương qua đêm, sau khi uống ly không hương vẫn còn lưu. Rượu trắng loại hương
ngâm có hương ngâm, Giáo Để Hương và Thuần Điềm hương hương vị đặc thù của tam
vị hợp nhất, men to chổ nó dùng đa số là men rượu siêu nhiệt độ cao, công nghệ
lên men là phức tạp nhất.
Rượu trắng loại hương nồng.
Rượu trắng loại hương nồng nguyên liệu lên
men có nhiều loại, trong đó lấy cao lương làm chính, sản xuất truyền thống chọn
dùng công nghệ lên men nối tiếp trộn chưng trộn nấu, rượu Lão Giáo lên men chọn
dùng cách lên men Lão Giáo lâu năm, cũng có sức người nuôi cấy. Ở trong rượu nổi
tiếng ưu tú, sản lượng rượu trắng loại hương nồng nhiều nhất, như Lão Giáo Lô
Châu Đặc Khúc, Ngũ Lương Dịch Tửu, Kiếm Nam Xuân Tửu, Cổ Tỉnh Tửu, Song Câu Đại
Khúc Tửu, Dương Hà Đại Khúc Tửu v.v… đều thuộc về đại diện loại này. Thành phần
hương vị của rượu trắng loại hương nồng lấy thành phần loại este chiếm ưu thế
tuyệt đối, thành phần loại este ràng buộc chiếm 60% tổng lượng thành phần hương
vị. Đặc điểm của rượu trắng loại hương nồng cấp độ tốt là vô sắc hoặc hơi sắc
vàng, trong trẻo trong suốt, không lắng cặn, có mùi hương nồng nàn, trọng dùng,
lấy acid Etylenic, Este làm chủ thể; hương cất giữ nồng nàn, dịu say ngọt
trong, mùi hương cân đối, dư vị dài lâu, có phong vị độc đáo sẳn có của nó, rất
được người tiêu dùng ưa thích.
Rượu trắng loại hương dịu.
Rượu trắng loại hương dịu chọn dùng công
nghệ lên men thanh chưng thanh tra, lên men chọn dùng vò đất; lấy men to nhiệt
độ trung bình làm chất lên men đường hóa nấu rượu, cũng có dùng men trấu hoặc
men khô phụ để làm chất xúc tác đường hóa. Rượu trắng loại hương dịu lấy rượu
Phần Dương Hạnh Hoa Thôn Sơn Tây làm đại diện, các loại khác như Bảo Phong Tửu,
Đặc chế Hoàng Hạc Lâu Tửu cũng có rượu trắng loại hương dịu. Thành phần hương vị
của rượu trắng loại hương dịu lấy thành phần loại este chiếm ưu thế tuyệt đối,
trong đó lấy kết hợp hai chất Ethyl
acetate và Ethyl Lactate làm hương vị chủ thể. Đặc trưng phong vị điển hình của loại
rượu trắng hương dịu là vô sắc, trong trẻo trong suốt, hương thơm thoang thoảng
thuần khiết, nhiều vị nhịp nhàng, thuần ngọt êm dịu, dư vị dễ chịu, ngọt trơn
ngon miệng, có mùi hương ghép lấy Ethyl acetate làm chính, vào miệng hơi ngọt,
rất có phong cách rượu trắng truyền thống.
Rượu trắng loại hương gạo.
Sản xuất truyền thống rượu trắng loại
hương gạo chọn gạo dùng làm nguyên liệu, men nhỏ làm chất lên men đường hóa,
trước tiên bồi vi khuẩn đường hóa, sau lên men trạng thái lỏng chưng cất chế
thành rượu. Công nghệ nấu của nó tương đối đơn giản, thời kỳ lên men ngắn, hàm
lượng thành phần hương vị đối lập nhau tương đối ít, mùi hương không vô cùng mạnh
mẽ. Như Quế Lâm Tam Hoa Tửu, Toàn Châu Tương Sơn tửu, Quảng Đông Trường Lạc
Thiêu v.v… thuộc về rượu trắng loại này. Đặc trưng phong vị rượu trắng loại
hương gạo điển hình là không màu, trong trẻo trong suốt, có mùi hương phức hợp
thanh nhã lấy ethyl acetate và Phenylethanol
B1 làm chủ thể, vào miệng thuần ngọt, làm cho người
ta thoải mái dễ chịu, rơi vào miệng vui vẻ sung sướng thoải thích.
Rượu trắng loại hương phụng.
Rượu trắng loại hương phụng là chỉ một loại
rượu trắng có phong cách mùi hương Tây Phụng Tửu, hương vị của nó ở giữa loại
hương dịu và loại hương nồng. Đặc trưng mùi hương của nó là: thuần túy mùi
hương nổi bật, lấy Ethyl acetate làm chủ,
mùi hương Ethyl acetate nhất định làm phụ, sản phẩm đại diện của rượu trắng loại
này là Tây Phụng Tửu.
Rượu trắng loại hương hạt vừng.
Đặc trưng phong vị của rượu trắng loại hương hạt vừng
điển hình là: lấy mùi hương thanh nhã chỉ loại Ethyl acetate làm chủ yếu, hưng
tiêu nổi bật, vào miệng thơm; lấy mùi hương tiêu, hương hồ làm chủ, vô sắc,
trong vắt trong suốt; khẩu vị tương đối đậm đà, sướng miệng, có khẩu vị giống
như rượu trắng, hậu vị hơi có vị đắng. Trong rượu trắng
loại hương hạt vừng Ethyl acetate và hàm lượng tuyệt đối của chất tổng hợp
este rõ ràng thấp hơn rượu trắng loại hương nồng và rượu trắng loại hương ngâm,
lại cao hơn hàm lượng thành phần tương ứng của rượu trắng loại hương dịu, cho
nên mùi hương của rượu này càng thanh nhã.
Rượu trắng loại hương đậu xị.
Rượu trắng loại hương đậu xị là lấy gạo làm nguyên liệu,
men nhỏ làm chất lên men đường hóa, đường hóa nữa trạng thái rắn nữa trạng thái
lỏng vừa lên men ủ chế mà thành rượu trắng. rượu loại này lấy Ethyl acetate,
Phenylethanol, Ethyl Lactate làm thành phần chủ thể của
mùi hương. Đặc trưng phong vị của rượu trắng loại đậu xị là trong suốt trong vắt,
óng ánh đẹp mắt, khẩu vị mềm mại, êm dịu, dư vị tương đối lâu, vào miệng hơi có
vị đắng, vị phía sau thoải mái. Sản phẩm đại diện của rượu trắng loại này là Ngọc
Băng Thiêu Tửu.
Rượu trắng loại hương đặc biệt.
Rượu trắng loại hương đặc biệt lấy gạo làm
nguyên liệu, đặc điểm phong cách khác là u nhã dễ chịu, điều hòa nhiều hương,
chứa nhiều mùi hương phức hợp hiếm Carbon
acid béo ethyl ester, nhu mềm dịu nhẹ, hương vị điều hòa, dư vị dài lâu.
5.Phân biệt theo chất lượng rượu.
Danh tửu nhà nước.
Danh tửu nhà nước chỉ rượu chất lượng cao nhất của nhà
nước đánh giá. Cấp nhà nước bình xét rượu trắng tổng cộng tiến hành qua 5 lần,
Mao Đài Tửu, Lão Giáo Lô Châu, Ngũ Lương Dịch v.v…rượu ở trên hội nghị đánh giá
rượu nhà nước khác nhau đều được nhận xét là danh tửu.
Rượu chất lượng cấp nhà nước.
Rượu chất lượng cấp nhà nước là chỉ rượu trắng nhận được
giải thưởng chất lượng bạc hoặc giải thưởng chất lượng tốt nhà nước, bình xét
rượu chất lượng tốt cấp nhà nước và bình xét danh tửu tiến hành cùng lúc.
Rượu chất lượng tốt cấp tỉnh, bộ.
Rượu chất lượng tốt cấp tỉnh, bộ chỉ rượu trắng trên hội
nghị ủy ban bình chọn rượu mỗi tỉnh, bộ nhận được huy chương.
Rượu trắng thông thường.
Rượu trắng thông thường chỉ sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn
có chung quan điểm chất lượng nhà nước, chưa nhận được huy chương chính thức.
Rượu trắng thông thường chiếm đại đa số sản lượng rượu, giá cả rẻ, rất được người
dân tiếp nhận. Có loại chất lượng cũng rất tốt. rượu trắng loại này đa số là dùng
sản xuất cách trạng thái lỏng.
Phân biệt theo độ rượu.
Rượu trắng cao độ.
Đây là phương pháp sản xuất truyền thống Trung Quốc chổ
rượu trắng hình thành, độ rượu ở 41% (v/v) trở lên, nhiều lắm là 50% (v/v) trở
lên, thông thường không vượt quá 650.
Rượu trắng thấp độ.
Chọn dùng công nghệ hạ độ, độ rượu thông thường ở 30%
(v/v), cũng có khoảng 20% (v/v).
II/ Rượu vàng.
Rượu vàng là rượu truyền thống cổ xưa nhất Trung Quốc,
khởi nguồn của nó và khởi nguồn của nấu rượu ngũ cốc Trung Quốc trước sau ngang
nhau, đến ngày nay lịch sử có khoảng 8000 năm. Nó là lấy gạo, ngủ cốc làm
nguyên liệu, sản xuất rượu trãi qua chưng nấu, đường hóa và lên men, ép lọc mà
thành. Thành phần chủ yếu trong rượu vàng ngoài cồn etylic và nước ra, còn có
đường mạch nha, đường nho, Đextrin, Glyxêrin, vật chứa nitơ, Anbrein, muối vô
cơ và một số lượng nhỏ aldehyde, este và acid amim của chất anbumin phân giải,
đặc điểm của nó là có giá trị dinh dưỡng tương đối cao và đối với cơ thể con
người có tính vô hại. Vì thế bất kể là từ tinh thần dân tộc phấn chấn, kế thừa
di sản quý báu dân tộc, hay là từ giá trị dùng thuốc, giá trị nấu nướng và giá
trị dinh dưỡng mà nói, rượu vàng đều cần trở thành một loại rượu của mọi người
cò thể dùng để uống phổ biến, còn trở thành một loại rượu có tiền đồ phát triển
nhất.
Hiện tại trên thị trường chủng loại của rượu vàng có rất
nhiều, nhưng chủ yếu không giống nhau của nguyên liệu, phương pháp sản xuất có
thể quy nạp là 3 loại lớn: tức là Thiệu Hưng Tửu, Thử Mễ Hoàng Tửu (lấy Sơn
Đông Tức Mạc Lão Tửu làm đại diện) và Hồng Khúc Hoàng tửu (lấy Chiết Nam, Phúc
Kiến, Đài Loan làm đại diện). tuy rằng sản phẩm rượu vàng đa dạng, cách chế tạo
và phong vị mỗi cái đều có kiểu cách riêng, nhưng nền tảng sản xuất của nó chủ
yếu tập trung ở vùng Hạ Du Trường Giang, lấy sản phẩm của Thiệu Hưng Chiết
Giang là nổi tiếng nhất. Rượu vàng đại thể có thể chia làm:
1.Phân biệt theo nguyên liệu và men rượu.
Rượu vàng gạo nếp.
Lấy rượu thuốc và men lúa mạch làm chất đường hóa, lên
men, sản xuất chủ yếu ở vùng phía nam Trung Quốc.
Rượu vàng hạt kê.
Lấy men trấu nấm men gạo chế thành chất đường hóa, lên
men. Chủ yếu sản xuất ở vùng phương bắc Trung Quốc.
Rượu vàng gạo tẻ.
Là một loại rượu vàng cải tiến, lấy men gạo và con men
làm chất đường hóa lên men. Chủ yếu sản xuất Cát Lâm và Sơn Đông Trung Quốc.
Rượu vàng men đỏ.
Lấy gạo nếp làm nguyên liệu, men đỏ làm chất đường hóa
lên men. Sản xuất chủ yếu ở 2 vùng Phúc Kiến và Chiết Giang Trung Quốc.
2.Phân biệt theo phương pháp sản xuất.
(1)Rượu vàng cách ướt cơm.
Rượu vàng cách ướt cơm đem gạo nếp dùng nước ngâm ngâm
trong nước 2 ngày 2 đêm, sau đó chưng nấu thành cơm, lại thông qua nước lạnh
phun ướt đạt đến nhiệt độ tốt nhất của đường hóa và lên men. Trộn thêm thuốc rượu,
men lúa mạch đặc chế và nước trong, trãi qua 45 ngày đường hóa và lên men đã có
thể làm thành. Chủ yếu cách này dùng cho sản xuất rượu vàng loại ngọt.
(2)Rượu vàng cách trải cơm.
Đem gạo nếp dùng nước ngâm trong nước 16-20 ngày, lấy
hạt gạo ra, tách nước ra. Hạt gạo chưng nấu thành cơm, sau đó đem cơm trải trên
chiếu tre, trải qua không khí làm lạnh đạt đến nhiệt độ lên men dự định, phối hợp
thêm men rượu, men lúa mạch, nước trong và nước sau khi ngâm gạo phân lượng nhất
định, trải qua đường hóa và lên men 60 – 80 ngày làm thành. Rượu vàng sản xuất dùng
cách này chất lượng thông thường so với rượu vàng cách ướt cơm tương đối tốt.
(3)Rượu vàng cách bón cơm.
Đem nguyên liệu gạo nếp chia thành mấy tốp. Tốp thứ nhất
lấy cách ướt cơm làm thành men rượu, sau đó lại chia tốp thêm vào nguyên liệu mới,
làm cho tiếp tục tiến hành lên men. Rượu vàng dùng cách này sản xuất cùng cách
ướt cơm và rượu vàng cách trải cơm ngang nhau, lên men càng thuần hóa, tỉ lệ
nguyên liệu sử dụng tương đối cao. Đây là một trong phương pháp sản xuất cổ xưa
của Trung Quốc, từ sớm ở thời kỳ Đông Hán đã thịnh hành. Hiện tại ở các nơi
Trung Quốc vẫn đang có rất nhiều địa phương tiếp tục dùng công nghệ truyền thống
này. Rượu Thiệu Hưng thêm cơm nổi tiếng tiện làm đại diện điển hình của nó.
3.Phân theo hàm lượng đường.
Rượu vàng theo chổ hàm lượng đường chứa có thể chia
làm:
Rượu loại ngọt: hàm lượng đường ở 10% trở lên.
Rượu loại ngọt vừa: hàm lượng đường ở 0.5 – 5%
Rượu loại khô: hàm lượng đường ở 0.5% trở xuống.
4.Phân theo phương thức không giống nhau khác.
(1)
Theo màu sắc của rượu đặt tên.
Như Nguyên Hồng tửu (màu hổ phách), Trúc Diệp Thanh
(màu xanh lá cây nhạt), Hắc Tửu (màu tối đen), Hồng tửu (màu đỏ vàng).
(2) Theo phương thức đóng gói đặt tên.
Nhu Hoa Điêu (ở ngoài hủ rượu vẽ thêm đủ loại hoa văn
và màu hoa văn).
Theo công dụng đặc thù đặt tên.
Như Nữ Nhi Hồng (lúc người con gái ra đời đem hủ rượu
chôn ở dưới đất, đợi người con gái lúc xuất giá lấy ra đãi tiệc khách khứa)
v.v….
III/Bia.
Bia là một loại rượu có bọt và hương vị đặc biệt lấy đại
mạch và hoa hublông làm nguyên liệu chế thành, vị hơi đắng, hàm lượng cồn tương
đối thấp. Tuy rằng Trung quốc ở đầu thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện xưởng bia,
nhưng sử thư ghi chép Trung quốc từ sớm ở 3200 năm trước đã có một loại dùng mạch
nha và cốc nha làm lương thực nấu rượu, chất đường hóa nấu thành, gọi là rượu
“rượu ngọt”. Loại rượu này mùi vị ngọt nhạt tuy rằng thời đó không gọi bia,
nhưng chúng ta có thể khẳng định nó tương tự như bia của hiện tại. Chỉ là do hậu
nhân chỉ yêu dùng rượu nấu men, chê “rượu ngọt” mùi vị nhạt, đến nỗi cách nấu
rượu loại này dần dần thất truyền, loại rượu này cũng đã mất đi.
Cận đại. con người Trung Quốc tự mình thành lập và
kinh doanh xưởng bia, như xưởng bia Song Hợp Thịnh Bắc Kinh bắt đầu ở năm 1915
và xưởng bia Lễ Tuyên Yên Đài của năm 1920. Nhưng do lúc đó mọi người đối với sản
phẩm của bia mới lạ không quen, số lượng tiêu thụ đều lèo tèo thưa thớt. Sau kiến
quốc, công nghiệp bia của Trung Quốc nhận
được phát triển nhanh chóng. Chỉ lấy con số thống kê của năm 1990: thời đó tổng
số xưởng sản xuất bia toàn quốc đã đạt đến hơn 800 xưởng, sản lượng hơn 800 vạn
tấn, trong đó không ít bia nhãn hiệu tốt đã vận chuyển tiêu thụ ở vùng Hương Cảng
Áo Môn và Âu Châu, quốc gia Bắc mỹ.
Mấy năm gần đây, do mọi người ngày càng xem trọng tác
dụng bảo vệ sức khoẻ của thức uống, phát triển của bia cũng có xu thế đa dạng
hóa chủng loại mùi vị, khẩu vị nhẹ nhàng, ít đường, ít cồn hoặc không có cồn.
Bia loại mới của Trung Quốc bao gồm có các loại sản phẩm: bia đen, bia tiểu mạch,
bia mùi vị trái cây, bia sữa lên men, bia dinh dưỡng, bia bảo vệ sức khỏe, bia
nho, bia đầu khỉ, bia củ sắn, bia suối nước khoáng, bia ngọt, bia tam tiên, bia
cao lương, bia kiều mạch, bia mật ong, bia nhân sâm, bia tăng duy, bia hạt ngô,
bia cường lực, bia linh chi, bia lô duẫn v.v…..
Thế giới bia muôn màu muôn vẽ, đầy ắp thứ quý giá, có
chai thủy tinh đựng, hộp đựng dễ kéo, còn có bia đủ loại thùng to thùng nhỏ, có
chai đựng màu xanh thẫm, có chai đựng màu lá cọ và chai đựng màu trắng. Nhãn hàng
của bia cũng không còn là nhãn đơn, có nhãn kép, còn có đa kênh nhãn hiệu hàng
hóa. Mẫu hoa văn và màu sắc càng là tươi đẹp rực rỡ, nhìn hoài không chán. Có
thể nói, bia là một mặt gương của tiến trình văn minh nhân loại, nó đại diện một
loại phương thức sản xuất, một loại triết lý tiêu dùng và là một loại thú vị của
cuộc sống.
Nhà nước mới nhất Trung Quốc qui định tiêu chuẩn bia
là các loại bia tươi nấu chín lấy đại mạch mạch nha làm nguyên liệu chủ yếu,
thêm hublông, trãi qua men rượu lên men ủ chế mà thành, chứa khí cacbonic, nổi
bọt, độ cồn thấp.
Bia là thức uống độ cồn thấp lượng tiêu thụ lớn nhất
các nước thế giới ngày nay, sản phẩm rất nhiều, thông thường có thể căn cứ
phương thức sản xuất, nồng độ sản phẩm, màu sắc của bia, đối tượng tiêu thụ của
bia, đối tượng đóng gói của bia, thành phần chủng loại men vi khuẩn dùng lên
men.
Theo qui định luật thuế rượu nước Đức, sản phẩm bia
theo nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch để phân chia. Cũng chính là nói, nồng độ
nước lúa mạch trước lên men, chính là tỉ trọng thành. Ngoài ra, thuế suất là
căn cứ theo sản lượng năm và sản phẩm bia mà chọn dùng thuế suất lũy tiến.
1.Phân loại theo màu sắc.
(1) Bia màu sắc nhạt..
Màu sắc màu vàng kim nhạt, ở Trung Quốc chiếm 98% thị
trường tiêu thụ trở lên. Loại bia này khẩu vị mát mẻ trong lành, vào miệng cảm
giác mạnh, hương hublông nổi bật. Sắc độ bia màu nhạt ở 5-14 đơn vị EBC, như:
bia sắc nhạt nồng độ cao, là bia nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch ở 13% (m/m)
trở lên; Bia sắc nhạt nồng độ trung bình, bia nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch
10 – 13% (m/m); bia sắc nhạt nồng độ thấp, là bia của nồng độ nước nguyên liệu
lúa mạch 10% (m/m) trở xuống; bia khô
(bia độ lên men cao), bia sắc nhạt của độ lên men thực tế ở 72% trở lên; bia
thuần khiết thấp, bia của hàm lượng cồn 2% (m/m) trở xuống.
(2)Bia màu sắc đậm.
Hiện lên màu lá cọ hoặc màu nâu đỏ, khẩu vị đậm đà, vị
đắng tương đối nhẹ, hương vị mạch nha sực nức nổi bật.
Sắc độ của bia màu đậm ở 15 – 40 đơn vị EBC, như: bia
sắc đậm nồng độ cao, bia sắc đậm nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch 13% (m/m) trở
lên; bia sắc đậm nồng độ thấp, là bia sắc đậm nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch
13% (m/m) trở xuống; bia khô sắc đậm (bia độ lên men cao), bia sắc đậm độ lên
men thực tế ở 72% trở lên.
(3)Bia sắc đen.
Màu sắc màu nâu đỏ đậm cho đến màu nâu đen. Sắc độ bia
đen lớn ở 40 đơn vị EBC, bề ngoài rất giống xì dầu, giấm chua, loại bia này là ở
lúc ủ thêm vào hương tiêu mạch nha, làm cho màu sắc của bia thêm đậm. Loại bia
này ngoài đặc tính bia thông thường ra, đặc biệt là nồng độ nước nguyên liệu
lúa mạch cao, mạch nha hương tiêu nổi bật, bọt mịn, khẩu vị thuần túy nồng nàn,
vị đắng tương đối nhẹ.
2.Phân biệt theo công nghệ sản xuất.
(1) Bia sống.
Bia sống là bia không trải qua diệt khuẩn áp suất barơ
(đơn vị áp suất Anh) hoặc diệt khuẩn nhiệt độ cao trong nháy mắt, chọn dùng
phương pháp lọc vật lý trừ khuẩn, đạt đến nhất định sinh vật bia tính ổn định.
(2) Bia tươi
Bia tươi là không trải qua diệt khuẩn barơ hoặc diệt
khuẩn nhiệt độ cao trong nháy mắt, trong thành phẩm có chứa vi khuẩn men rượu sống
một lượng nhất định, đạt đến nhất định sinh vật bia tính ổn định; Bia tươi vì
chưa trải qua diệt khuẩn, trong thể rượu bảo lưu con men và dung môi lượng lớn,
đồng thời cũng tồn tại tạp khuẩn khác không dễ cất giữ thời gian dài, cho nên
thời kỳ chất lượng bia bảo quản ngắn, thông thường chỉ có thể dùng uống tiêu thụ
ngay tại chổ. Hiện thời bia tươi tiêu thụ trên thị trường bia đại bộ phận là kiểu
phía trước là quán phía sau là xưởng, ủ nấu ngay tại chổ sau đó cung cấp cho
người tiêu dùng để uống. Bia tươi chế tạo công nghệ này không chỉ khẩu vị tươi
mới, phong vị bia sâu đậm, mà còn có giá trị dinh dưỡng nhất định.
(3) Bia nấu chín.
Ngược lại với bia tươi, bia sau khi ủ, trải qua đóng
gói dùng diệt khuẩn áp suất barơ hoặc nhiệt độ cao trong nháy mắt giết chết vi
khuẩn bia sinh sản gọi là bia nấu chín. Bia nấu chín có thể cất giữ thời gian
dài, mà không phát sinh vật lắng xuống đục ngầu.
Phân biệt theo phương pháp sản xuất.
Bia tươi.
Là chỉ bia sau khi trải qua đóng gói, bia không trải
qua nhiệt độ thấp diệt khuẩn (cũng gọi là diệt khuẩn áp suất barơ) mà tiêu thụ,
loại bia này thông thường tiêu thụ ngay tại chổ, thời gian cất giữ không thích
hợp quá lâu, dưới nhiệt độ thấp thường là một tuần.
Bia nấu chín.
Là chỉ bia sau khi trải qua đóng gói, bia trải qua diệt
khuẩn nhiệt độ thấp, thời gian cất giữ tương đối dài, có thể đạt đến khoảng 3
tháng.
Bia tươi và bia nấu chín khác biệt của hai loại là giết
khuẩn và không giết khuẩn.
4.Phân loại theo hàm lượng cồn.
(1) Bia chứa cồn.
Thông thường chứa cồn là 2-4 độ, cũng chính là trong
100 gam bia có chứa 2-4 gam cồn 100%. Loại bia này nồng độ nước nguyên liệu lúa
mạch thông thường là 10°, 11°, 12°, 14°. Trên thị trường bia tiêu thụ tuyệt đại
bộ phận là bia chứa cồn.
(2) Bia cồn thấp hoặc bia không cồn.
Thông thường mà nói hàm lượng cồn của bia thấp ở 2.5%,
gọi là bia cồn thấp. Bia có hàm lượng cồn thấp ở 0.5% gọi là bia không cồn. Loại
bia này là chọn dùng phương pháp công nghệ đặc thù áp chế thành phần cồn thời
gian lên men bia hoặc là trước tiên ủ thành bia phổ biến, sau đó chọn dùng cách
chưng cất, cách thẩm thấu ngược hoặc cách thẩm thấu tiêu trừ thành phần cồn trong
bia. Loại bia này đã giữ lại phong vị của bia sẳn có, mà còn có dinh dưỡng
phong phú, giá trị nhiệt thấp, hết sức được mọi người đối với cồn có kiêng kỵ
hoan nghênh, ở nước ngoài đã rất thịnh hành.
5.Phân biệt theo phương thức lên men.
(1) Bia lên men trên mặt.
Ở dưới nhiệt độ tương đối cao (15°C - 200°C) tiến hành
lên men, khởi phát nhanh. Thời kỳ sau phần lớn con men lên men nổi ở mặt chất lỏng,
thời kỳ lên men 4 - 6 ngày. Chu kỳ sinh sản
tương đối ngắn, thiết bị quay vòng nhanh, bia có phong vị độc đáo, nhưng thời kỳ
giữ gìn tương đối ngắn.
(2) Bia lên men dưới mặt.
Lên men chính nhiệt độ thấp (không vượt quá 130°C),
quá trình lên men chậm rãi (thời kỳ lên men 5 – 10 ngày). Do sử dụng con men
lên men dưới mặt, ở thời kỳ hậu lên men chính, phần lớn con men chìm xuống phần
đáy đồ đựng. Thời kỳ lên men hậu lên men mặt dưới tương đối dài, chất lỏng rượu
trong veo tốt, bọt mịn, phong vị ngon, thời kỳ cất giữ dài.
Trung Quốc và đại đa số quốc gia đều chọn dùng cách
lên men mặt dưới sản xuất bia.
6.Phân biệt theo nồng độ sản phẩm.
(1) Bia loại nồng độ cao.
Nồng độ của loại bia này ở 16° trở lên.
(2) Bia loại nồng độ trung bình.
Nồng độ của bia loại này là 8 - 16°.
(3) Bia loại nồng độ thấp.
Nồng độ của bia loại này thấp ở 8°.
Mọi người thường nói bia 12° và bia 11° chính là chỉ
cách nói nồng độ nước nguyên liệu lúa mạch, mà không phải chỉ nồng độ cồn. Trên
thực tế hàm lượng cồn của nó chỉ có khoảng 3.4 – 3.7%.
7.Phân biệt theo đối tượng tiêu thụ.
Có bia loại phổ biến, bia độ cồn thấp (không), bia đường
thấp (không), bia chua v.v….
Bia không cồn hoặc bia thấp độ cồn sử dụng thích hợp
cho tài xế hoặc người không biết uống rượu dùng để uống. Bia không đường hoặc
bia thấp độ đường thích hợp cho người mắc bệnh tiểu đường dùng để uống.
8.Phân biệt theo đồ đựng đóng gói.
(1) Bia đựng trong chai.
Có hai loại 350ml và 640ml.
(2) Bia lon.
Có qui cách 330 ml.
(3) Bia tươi đựng thùng.
Bia nấu chín đựng trong chai, đóng hộp thời kỳ bảo quản
chất lượng không dừng ở 120 ngày (tốt, cấp 1), 60 ngày (cấp 2). Bia tươi đựng
trong chai thời kỳ bảo đảm chất lượng không dừng lại ở 7 ngày. Bia tươi đựnglon,
đựng thùng bảo đảm chất lượng không dừng ở 3 ngày.
IV- Rượu trái cây.
Rượu trái cây lấy đủ loại hoa quả và trái cây hoang
như nho, lê, quýt, trái vải, mía, cây sơn tra, cây dương mai v.v…. làm nguyên
liệu, chọn dùng cách ủ chế lên men chế thành đủ loại rượu thức uống độ nhẹ, có
thể phân làm 2 loại lớn rượu trái cây lên men và rượu trái cây chưng cất. Lịch
sử của rượu trái cây ở trong lịch sử nấu rượu nhân loại vô cùng là lâu đời,
trong sử tịch đã có ghi chép truyền thuyết “Vượn khỉ nấu rượu”. Nhưng đó chỉ là
rượu trái cây dựa vào lên men tự nhiên hình thành; Còn lịch sử rượu trái cây ủ
chế lên men sức người Trung Quốc thì phải muộn hơn nhiều, thông thường cho rằng
là ở triều đại nhà Hán sau khi nho từ Tây Vực truyền vào mới xuất hiện.
Thời kỳ Đường Tống sản xuất rượu nho ở Trung Quốc đã
tương đối thịnh hành, ngoài ra còn xuất hiện rượu dừa, rượu cam vàng, rượu táo,
rượu lê, rượu thạch lựu và rượu mật các loại sản phẩm, nhưng phát triển của
chúng nó đều chưa có thể giống như rượu vàng, rượu trắng và rượu phối chế ở
trên lịch sử nấu rượu thế giới phất riêng một ngọn cờ, hình thành phong cách
truyền thống. Mãi đến cuối nhà Thanh lập nên công ty nấu rượu nho Trương Dụ Yên
Đài, đánh dấu mở đầu sản xuất qui mô hóa loại rượu trái cây Trung Quốc. Sau Kiến
Quốc công nghiệp nấu rượu trái cây Trung Quốc đã có một bước phát triển dài mau
chóng, lấy rượu nho có tính đại diện nhất làm ví dụ: tất cả chủng loại rượu nho
tương đối có tiếng trên thế giới, Trung Quốc đều đã có thể sản xuất số lượng lớn;
xí nghiệp sản xuất thì lấy Trương Dụ, Trường Thành và Vương Triều là có tiếng
nhất. Cái gọi là “rượu nho” chính là chỉ thức uống có tính cồn do nho tươi trải
qua lên men mà sản xuất ra, rượu nho có phân loại như sau:
1.Phân loại theo màu sắc.
(1) Rượu nho trắng.
Lựa chọn dùng nho trắng hoặc nho nấu rượu da trái màu
nhạt. Trải qua tách rời da nước, lấy nước quả nho của nó tiến hành lên men ủ chế
mà thành rượu nho, màu sắc của rượu nho loại này gần như là vô sắc, vàng nhạt
chút xanh, vàng nhạt, màu hoàng kim. Màu sắc quá thẫm thì không phù hợp yêu cầu
màu sắc rượu nho. Rượu nho trắng có thể phân loại ngọt và loại không ngọt. Rượu
nho trắng nếu là ngọt, nó thích hợp uống ở nhiệt độ là 10°C- 12°C, loại ngọt
thì là từ 5°C - 10°C.
(2) Rượu nho đỏ.
Lụa chọn dùng nho nấu rượu da đỏ thịt trắng hoặc thịt
đỏ đều tiến hành lên men hỗn hợp nước da thời gian ngắn, sau đó tiến hành tách
rời xếp ủ mà thành rượu nho, màu sắc cần hiện lên màu hồng ngọc thiên nhiên.
Màu đỏ tím, màu đỏ thạch lựu, mất đi màu đỏ cảm giác tự nhiên không phù hợp yêu
cầu màu sắc của rượu nho đỏ. Cảm giác miệng của nó không ngọt, nhưng ngọt thơm,
nhiệt độ thích hợp uống là 14°C- 20°C.
(3) Rượu nho màu hồng đào.
Rượu này là ranh giới ở giữa rượu nho đỏ và rượu nho
trắng. Lựa chọn dùng nho nấu rượu da đỏ thịt trắng, tiến hành lên men hổn hợp da
nước thời kỳ ngắn, sau khi đạt đến màu sắc yêu cầu tiến hành tách rời võ cặn,
tiếp tục lên men, xếp ủ thành rượu nho màu hồng đào. Màu sắc của rượu loại này
cần phải là màu hồng đào hoặc màu hồng, màu đỏ nhạt. Nhiệt độ thích hợp uống là
10°C - 12°C.
2. Phân loại theo nguồn gốc sinh trưởng nho.
(1) Rượu nho núi (rượu nho hoang).
Lấy trái nho mọc hoang làm nguyên liệu ủ thành rượu
nho, sản phẩm lấy rượu nho núi hoặc rượu nho đặt tên.
(2) Rượu nho nhà.
Lấy chủng loại nho nấu rượu của sức người vun bón làm
nguyên liệu ủ thành rượu nho, sản phẩm trực tiếp lấy rượu nho đặt tên.
Ở Trung Quốc nhà xưởng sản xuất rượu nho phần lớn lấy
rượu nho gia đình sản xuất làm chính.
3. Phân biệt theo hàm lượng đường trong rượu nho.
(1) Rượu nho khan
Phần đường của rượu gần như đã lên men hết, chỉ tổng
hàm lượng đường trong mỗi lít rượu nho thấp ở 4 gam. Lúc này dùng để uống thường
không có vị ngọt, vị chua nổi bật, như rượu nho trắng khan, rượu nho đỏ khan,
rượu nho hồng đào khan.
(2) Rượu nho khan phân nữa.
Là chỉ trong mỗi lít rượu nho tổng hàm lượng đường ở
giữa 4 – 12 gam, khi dùng để uống có cảm giác hơi ngọt, như rượu nho trắng khan
phân nữa, rượu nho đỏ khan phân nữa, rượu nho hồng đào khan phân nữa.
(3)Rượu nho ngọt phân nữa.
Là chỉ trong mỗi lít rượu nho tổng hàm lượng đường, đứng
ở giữa 12 – 50 gam. Lúc dùng để uống có vị ngọt, cảm giác thỏa mãn vừa ý.
(4) Rượu nho ngọt.
Là chỉ trong mỗi lít rượu nho tổng hàm lượng đường ở
50 gam trở lên, lúc dùng để uống có cảm giác ngọt say nổi bật.
4.Phân loại theo hàm lượng nước rượu nho.
(1)Rượu nho toàn nước,
Trong rượu nho hàm lượng nguyên liệu nước nho là 100%,
không thêm đường, cồn và thành phần khác, như rượu nho loại khan.
(2) Rượu nho phân nữa nước.
Trong rượu nho hàm lượng của nguyên liệu nước nho là
50%, phân nữa kia có thể thêm vào đường, cồn, nước các loại phụ kiện khác, như
rượu nho phân nữa nước.
5.Phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế.
Theo cách phân loại nhà hàng, quán rượu trên quốc tế
thành tục, là đem rượu nho chia làm 3 loại: rượu thức ăn (table wine) hoặc gọi
là rượu nho không hơi (still wine), rượu nho chứa khí (sparkling wine), rượu
nho mạnh lên (fortified wine).
(1) Rượu thức ăn.
Bao gồm rượu nho đỏ (red wine), rượu nho trắng (white
wine) và rượu nho đỏ hoa hồng (rose wine). Do nho thiên nhiên mà thành, độ rượu
ước khoảng 14° trở xuống, ở dưới điều kiện nhiệt độ không khí 20°C, nhưng áp lực
không khí trong chai thấp ở 1 áp lực khí lớn, đều có thể coi là rượu thúc ăn
không hơi.
(2) Rượu nho chứa khí.
Bao gồm rượu sâm banh (champagne) và các loại rượu nho
chứa khí. Rượu sâm banh là rượu nho ga của vùng Champagne nước Pháp sản xuất,
do cách chế tạo của nó phức tạp, mùi vị rượu có nét độc đáo riêng, cộng thêm
chính phủ địa phương đối với rượu ga trưng thu thuế đặc biệt cao, làm cho giá cả
của rượu sâm banh ở trên thị trường vô cùng rất cao. Rượu nho của vùng khác nước
Pháp và quốc gia khác thế giới sản xuất chỉ có thể gọi là rượu ga (sparkling
wine).
(3) Rượu nho mạnh lên.
Rượu nho loại này ở trong quá trình chế tạo thêm vào
rượu brandy (rượu cô nhắc), làm cho độ rượu đạt đến 17° - 21°, bao gồm rượu
Sherry, rượu Porter, rượu Madeira. Rượu loại này nghiêm khắc mà nói không phải
là rượu nho lên men thuần túy, nhưng rất nhiều quán rượu đều đem nó qui vào loại
rượu nho.
5.Theo áp lực của khí cacbonic trong rượu.
(1) Rượu nho không hơi (Sill Wine).
Cũng gọi là rượu tịnh (bao gồm thêm rượu sâm banh), rượu
nho loại này tự thân nảy sinh lên men, không có chứa khí cacbonic hoặc khí
cacbonic sức người thêm vào.
(2) Rượu nho nổi bọt (sparkling wine)
Khí cacbonic chứa trong rượu nho loại này là lấy rượu
nho thêm đường lên men lần nữa mà nảy sinh hoặc dùng phương pháp sức người ép
vào, hàm lượng khí cácbonic trong rượu khác ở lúc 20°C áp lực duy trì ở 0.35
MPa trở lên, độ cồn không thấp ở 8%. Rượu sâm banh thuộc về rượu nho nổi bọt, ở
nước Pháp qui định chỉ có rượu nho nổi bọt ở tỉnh Champagne
sản xuất ra mới cỏ thể gọi là rượu champagne.
(3) Rượu nho ga.
Khí cacbonic trong rượu nho là lên men nảy sinh hoặc
là phương pháp sức người thêm vào, hàm lượng khí cacbonic trong rượu khác ở lúc
20°C áp lực duy trì từ 0.051 – 0.025 Mpa, độ cồn thấp không ở 40%.
6. Dựa vào gia công lại.
(1) Rượu nho thêm hương.
Rượu nho thêm hương cũng gọi là rượu khai vị, là ở
trong rượu nho thêm vào một lượng nhỏ vật chất có thể ăn được còn có tác dụng
làm tăng dậy trộn lẫn mùi hương mà thành rượu nho. Theo khác nhau của vật chất
hiện lên hương chủ yếu thêm vào trong rượu nho có thể chia làm loại vị đắng, loại
hương hoa, loại hương trái cây và loại hương thơm. Vermouth của Trung Quốc thuộc
về loại này.
(2) Rượu cô nhắc.
Rượu nho trải qua chưng cất mà thành rượu chưng cất.
Có một số rượu cô nhắc cũng có thể dùng trái cây khác nấu thành rượu chế tạo,
chỉ cần viết thêm vào tên của trái cây làm nguyên liệu, như rượu cô nhắc anh
đào, rượu cô nhắc táo và rượu cô nhắc mận v.v…
V/ Rượu phối chế.
Rượu phối chế (còn gọi rượu chế lại) thấy tên mà nghĩ
đến nghĩa chính là dùng rượu chưng cất hoặc rượu lên men làm rượu cơ sở, lại sức
người pha vào phụ liệu vị ngọt, hương liệu, sắc tố hoặc ngâm dược liệu, vỏ trái
cây, quả cây, động thực vật v.v….mà cuối cùng thành sản phẩm rượu, như rượu quả
lộ, rượu sâm banh, rượu ga v.v….
Theo khảo chứng, thời đại nguồn gốc rượu phối chế
Trung Quốc ở vào trước Xuân thu Chiến Quốc. Nó là lấy nguyên liệu rượu lên men,
rượu chưng cất hoặc cồn chất lượng tốt làm rượu cơ sở, thêm vào thành phần hoa
quả, hoặc vật liệu thơm của động thực vật, hoặc dược liệu, hoặc chất liệu hiện
màu, hiện hương và hương vị khác, chọn dùng cách ngâm, công nghệ chưng cất khác
nhau điều phối mà thành. Trên lịch sử khoa học nấu rượu, nó thuộc về một loại
rượu quý báu cấp thế giới.
Ngày này trên thị trường Trung Quốc chủng loại của rượu
phối chế đa dạng, nhưng tổng kết lại mà nói có thể chia làm3 loại lớn rượu bảo
kiện, rượu thuốc và rượu cocktail. Trong đó rượu bảo kiện là lợi dụng tính chất
dược lý của rượu, tuân theo nguyên lý “Y thực đồng nguyên”, phối lấy trung thảo
dược và các loại thực phẩm có công dụng ăn chữa bệnh điều chế mà
thành, màu sắc chủng loại của nó đồ sộ rực rỡ, làm cho người ta
tấm tắc khen ngợi. Sản phẩm lấy Vermouth, Trúc Diệp Thanh và rượu
Jinbo làm đại diện. Ghi chép có liên quan phương diện rượu thuốc sớm nhất có
như sau: loại rượu của nhà Ân, nhà Thương, ngoài “tửu”, “lễ” ra, còn có “sướng”.
Sướng là lấy hạt kê đen làm nguyên liệu nấu rượu, thêm vào cỏ Uất Kim Hương
(cũng là một loại thuốc đông y) ủ chế thành. Đây là rượu thuốc sớm nhất có văn
tự ghi chép. Rượu Sướng thường dùng cho thờ cúng và bói toán. Trong “Chu Lễ”
còn ghi chép: “Vương băng, đại tứ, dĩ sướng”
cũng chính là nói đế vương sau khi giá băng, dùng rượu sướng tắm rữa xác chết,
có thể duy trì thời gian tương đối dài không thối rữa.
Từ trong gò số 3ngôi mộ nhà Hán Chang Sha Ma Wang đào
ra được “Ngũ Thập Nhị Bệnh Phương”, được cho rằng là bản sao của thời Tần Hán
cuối thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, trong đó dùng đến phương thuốc rượu không
ít hơn 35 phương thuốc, ít nhất có 5 phương thuốc có thể cho rằng là công thức
pha chế thuốc rượu, dùng điều trị rắn cắn, mụn nhọt, con cái ghẻ v.v…, trong đó
có rượu thuốc uống, cũng có phương thuốc dùng bên ngoài. “Dưỡng Sinh Phương” là
một cuốn sách lụa đào ra được từ trong ngôi mộ gò Tây Hán Ma Wang, trong đó tổng
cộng có 6 loại phương pháp ủ chế rượu, đáng tiếc những phương thuốc này văn tự
phần lớn đều thiếu mất, chỉ có “Lao Lợi Trung” tương đối là hoàn chỉnh, phương
thuốc này tổng cộng bao gồm 10 trình tự công nghệ, Nhưng đáng để cường điệu là,
rượu thuốc thời đại Nguyên cổ đại đa số là dược phẩm thêm vào trong nguyên liệu
nấu rượu cùng nhau lên men, mà không giống như cách ngâm của hậu thế thường dùng.
Nguyên nhân chủ yếu của nó có thể là rượu của thời đại Nguyên cổ cất giữ không
dễ, cách ngâm dễ dẫn đến chua hỏng của rượu, thành phần dược phẩm còn chưa hòa
tan hết, rượu đã biến chất.
Rượu cocktail thì còn phức tạp hơn nhiều: nó là lấy rượu
2 loại hoặc 4 loại trở lên pha vào nước trái cây, hương liệu v.v… điều chế mà
thành rượu hỗn hợp, trong quá trình điều chế còn phải suy nghĩ đến nhiều yếu tố
màu sắc, độ rượu, độ đường, mùi hương, khẩu vị v.v…..
Trước kia đa số rượu cocktail Trung Quốc phương pháp
phối, phương pháp chế tạo đến nguyên liệu đều là do ngoại quốc dẫn nhập vào,
không những giá cả rất cao, còn khó mà phổ biến tiêu thụ. Về sau trải qua phát
hiện khảo nghiệm danh tửu của Trung Quốc, bao gồm rượu trắng, rượu vàng, bia và
rượu quả lộ cùng nước trái cây, nước có ga v.v….đều có thể dùng để điều phối rượu
cocktail, rượu pha xong cũng có sắc thái đỉnh cao, phong vị tuyệt vời.
(I) Rượu bảo kiện.
Hành vi uống rượu lúc đầu của nhân loại tuy rằng không
thể gọi là uống rượu dưỡng sinh, lại có liên hệ mật thiết cùng dưỡng sinh bảo vệ
sức khỏe. Rượu lúc đầu là nhân loại gom góp trái cây mọc hoang khi còn thừa nhận
được điều kiện thích hợp tự nhiên lên men mà thành, do rất nhiều trái cây mọc
hoang bản thân đã có giá trị dùng thuốc, cho nên rượu của lúc đầu có thể gọi là
“rượu bảo kiện” của thiên nhiên, nó đối với cơ thể khỏe mạnh của con người có
tác dụng bảo vệ và xúc tiến nhất định.
Rượu có nhiều loại, tính vị công hiệu của nó giống
nhau là phần nhiều. Thông thường mà luận, rượu tính ấm vị cay, tính ấm có thể
xua tan cái lạnh, vị cay có thể giải nhiệt, cho nên rượu có thể khơi kinh mạch,
hành khí hòa huyết, quyên tê tản kết, ôn dương khử hàn, có thể thông gan giải
trừ uất ức, khơi thông tình cảm thoải thích, cộng thêm vì rượu là tinh hoa của
ngũ cốc nấu thành, trước kia còn có thể có ích tiêu hóa. Ngoài ra rượu còn có
thể giết sâu đuổi tà, xua cái xấu đuổi cái ác. “Vạn vật chí” chép: 3 người Vương Túc, Trương Hoành, Mã Quân bấp
chấp sương mù buổi sáng đi. Một người uống rượu, một người uống ăn, một người bụng
không. Người bụng không chết, kẽ ăn no bệnh, người uống rượu khỏe mạnh. Đây
nói rõ “tửu thế tị ác, thắng vu tác thực
chi hiệu dã”. Kết hợp của rượu và dược liệu là một tiến bộ lớn của ẩm tửu
dưỡng sinh.
Kết hợp của rượu và thuốc đã xuất hiện sản phẩm rượu
hoàn toàn mới, rượu bảo kiện. Đặc điểm chủ yếu của rượu bảo kiện là trong quá
trình sản xuất rượu thêm vào dược liệu, chủ yếu lấy dưỡng sinh khỏe mạnh cơ thể
làm chính, có tác dụng bảo vệ sức khỏe cường tráng cơ thể. Dùng thuốc của nó
chú trọng pha chế, căn cứ theo công dụng của nó có thể chia làm loại hình bổ
khí, bổ máu, thêm dương, bổ âm và khí huyết song bổ v.v…..
Theo nâng cao mức sống hàng ngày, mọi người đối với
nhu cầu khỏe mạnh cũng ngày càng cao, đuổi theo phương thức khỏe mạnh cũng ngày
càng nhiều. rượu bảo kiện với tư cách là một danh từ hoàn toàn mới, đang từng
bước đi vào cuộc sống của mọi người.
(II)Rượu thuốc.
Rượu thuốc, ở cổ đại cùng loại rượu khác thống nhất gọi
là “tỉnh toan”. Trong y thư “Hoàng Đế Nội Kinh” sớm nhất Trung Quốc đã có “Bài
luận về nước lỏng acid aldehyde”. Lao lễ chính là loại rượu dùng ngũ cốc chế
thành, lao làm rượu đục, lễ làm rượu ngọt. Lấy rượu trắng, rượu vàng và rượu gạo
ngâm hoặc sắc nấu đủ loại thuốc đông y hoặc thức ăn có tính trị liệu và thêm bổ,
đi trao đổi cặn thuốc chất rượu uống nhận được (hoặc dược phẩm và thức ăn cùng
ngũ cốc, cùng nhau lên men nấu phối), chính là rượu thuốc. Vì rượu có các loại
tác dụng “thông huyết mạch, hành dược thế,
ấm trường vị, ngự phong hàn”, cho nên rượu và thuốc phối chế với nhau có thể
tăng cường sức thuốc, tức là có thể trị liệu bệnh tật và phòng ngừa bệnh tật, lại
có thể dùng để trị liệu phụ trợ sau bệnh. Rượu thuốc thêm bổ còn có thể mượn
công của thuốc, mượn sức của rượu, hướng đến tác dụng bổ hư cường tráng và
kháng suy ích thọ. Ở cổ đại xa xưa, rượu thuốc đã trở thành một loại chất quan
trọng độc đáo của Trung quốc, đến ngày nay trong ngoài nước trong sự nghiệp chữa
bệnh bảo vệ sức khỏe vẫn hưởng thụ thanh danh có tương đối cao. Theo sự không
ngừng nâng cao cuộc sống của mọi người, rượu thuốc với tư cách là một loại ẩm
liệu ngon phòng bệnh trừ bệnh, dưỡng sinh khỏe mạnh thân thể có công hiệu đã bắt
đầu tiến vào khắp mọi nhà. Một ly rượu thuốc hương vị thuần khiết, mùi hương sực
nức, chính là không có chổ phiền não của cổ nhân nói “thuốc đắng đã tật”, lại
không có đau khổ của truyền dịch tiêm chích ngày nay, đem đến cho mọi người là
một loại hưởng thụ rượu ngon nấu hay, cho nên mọi người vui lòng tiếp thu. Như
là rượu thuốc có tiếng tăm: rượu nhân sâm, rượu lộc nhung, rượu ngũ gia bì, rượu
hổ cốt, rượu quốc công, rượu thập toàn đại bổ, quy linh tập tửu, thủ ô tửu
v.v…., rất được sự hoan nghênh của quảng đại quần chúng.
Vì thế, rượu và các loại thuốc kết hợp là một bước tiến
bộ lớn của ẩm tửu dưỡng sinh. Tác dụng thuốc của rượu chủ yếu có 3 phương diện:
(1) Rượu có thể lưu thông sức thuốc. Cổ nhân nói: “tửu vi chư dược chi trưởng”. Rượu có thể làm cho sức thuốc “ngoại đạt vu biểu diện thượng chi vu điêu”,
làm cho tác dụng của thuốc quản lý lưu thông máu đạt đến phát huy tương đối tốt,
cũng có thể làm cho thuốc bổ thêm bổ mà không ngưng lại. (2) Rượu vừa trợ giúp
thuốc vừa tách ra thành phần hiệu quả. Rượu là một loại hữu cơ có dung môi tốt,
đại bộ phận vật chất tính hòa tan nước và nước không thể hòa tan, cần dùng một
số vật chất nào đó hòa tan dung môi tính phi cấp, đều có thể hòa tan ở trong cồn.
Nhiều chủng loại thành phần của thuốc đông y đều dễ nóng chảy ở trong cồn. Cồn
còn có tính thông thấu tốt, có thể đủ tiến vào trong tế bào tổ chức dược liệu một
cách tương đối dễ dàng, phát huy tác dụng hòa tan, thúc tiến thay thế và khuếch
tán, có lợi cho nâng cao tốc độ ngâm và hiệu quả ngâm ra. (3) Rượu còn có tác dụng
phòng thối. Thông thường rượu thuốc đều có thể cất giữ thời gian số tháng thậm
chí số năm mà không biến chất, điều này tiện cho người uống rượu dưỡng sinh rất
lớn. Rượu thuốc căn cứ theo tác dụng của nó có thể chia làm 2 loại rượu bảo vệ
sức khỏe và loại trị liệu, rượu thuốc thường dùng phương pháp điều chế chủ yếu
có cách ngâm lạnh, cách ngâm nóng, cách thấm lọc và cách ủ chế.
1.Cách ngâm lạnh.
Đem dược liệu cắt vụn, sau khi rang chế, xếp vào hủ sứ
hoặc đồ đựng thích hợp, thêm lượng rượu trắng qui định, bịt kín ngâm, mỗi ngày
đảo 1,2 lần, sau 1 tuần, mỗi tuần đảo 1 lần; Tổng cộng ngâm 30 ngày lấy nước
trong ở trên, ép cặn thuốc, nước ép ra cùng nước trong bên trên hợp lại làm một,
thêm lượng đường thích hợp hoặc mật ong, trộn đảo hòa tan, bịt kín, để yên 14
ngày trở lên, lọc nước trong, rót vào đồ đựng là được.
2.Cách ngâm nóng.
Lấy dược liệu thuốc để sắc, dùng vải quấn lại, treo lơ
lững ở phần trên của đồ đựng, thêm rượu trắng đến phần trên hoàn toàn ngâm
không quấn vải; Đậy lại, đem đồ đựng ngâm vào trong nước, lửa nhỏ dần dần tăng
nhiệt, ngâm nhiệt độ 3 – 7 ngày đêm, lấy ra. Để yên qua đêm, lấy ra nước trong,
ép nén cặn thuốc, nước ép ra cùng nước trong bên trên hợp lại làm một, thêm đường
phèn hoặc mật ong hòa tan để yên ít nhất 2 ngày trở lên, lọc trong, rót vào đồ
đựng là được. Cách này gọi là cách ngâm treo. Cách này về sau cải cách là cách
thủy thêm nhiệt đến sau khi sôi, lập tức lấy ra, đổ vào trong vò, thêm đường hoặc
mật ong hòa tan, đậy vò bịt kín, ngâm 30 ngày, thu lấy nước trong, và cặn thuốc
ép hợp lại làm một, để yên sau khời gian thích hợp, lọc trong, rót vào đồ đựng
là được.
3.Cách thấm lọc.
Đem dược liệu làm vỡ thành bột thô, để bên trong nắp đồ
đựng, sau khi ướt đều dung môi ngâm ra lại thêm vào 60% - 70% lượng bột thô dược
liệu, bịt kín để yên 15 phút đến số giờ, làm cho dược liệu trương nỡ đầy đủ dùng
làm dự bị. Ngoài ra lấy một vòng bông thấm nước, dùng chất lỏng ngâm ra rau khi
ẩm ướt, nhẹ nhàng kê trải ra ở phần đáy ống thấm lọc (một loại hình trụ tròn hoặc
cái phiểu hình cái dùi tròn. Phần đáy của nó có cửa chảy ra, dùng pit tông khống
chế thể lỏng chảy ra), sau đó đem bột thuốc đã trương nở ẩm ướt chia thứ tự đổ
vào trong ống thấm lọc, mỗi lần sau khi thêm vào, đều phải ép bằng. Sau khi sắp
xếp hết, dùng giấy lọc hoặc vải gạc đem phủ trên mặt. Từ trước đến nay trong ống
thấm lọc khi từ từ thêm dung dịch vào, cần trước tiên mở pit tông của miệng ống
thấm lọc chảy ra, gạt bỏ không khí thặng dư trong ống, đợi dung dịch tự chảy ra
khỏi miệng ống đóng pit tông lại. Tiếp tục thêm dung dịch vào cao hơn số bột
thuốc vài cm, đậy lại để yên 24 – 48 giờ, để cho dung dịch đủ thấm lọc khuếch
tán. Sau đó mở pit tông ra, cho nước lọc chầm chậm chảy ra. Nếu như muốn nâng
cao nồng độ của chất lọc cũng có thể đem chất lỏng lọc lần đầu dùng làm dung dịch
bột thuốc mới tiến hành lần thứ 2 hoặc nhiều lần thấm lọc. Thu gom chất thấm lọc,
để yên lọc trong, đổ vào đồ đựng là được.
4. Cách ủ chế.
Tức là lấy dược liệu làm nguyên liệu sản xuất thêm men
ủ nấu rượu thuốc. Như Bạch Thuật Tửu và Kha Khởi Tửu của “Thiên Kim Dục Phương”
ghi chép, đều là dùng phương pháp này sản xuất rượu. Có điều, do cách chế này mức
độ khó khăn tương đối lớn, biện pháp phức tạp, hiện tại các gia đình ít chọn dùng.
(III) Rượu Cocktail.
Rượu cocktail ban đầu là một loại thức uống hỗn hợp ướp
lạnh lượng ít mà tính mãnh liệt, về sau không ngừng phát triển biến hóa, đến hiện
tại phạm vi của nó đã thay đổi đã đến đám đông. Cho đến hiện thời, rượu
cocktail đã có đủ loại hơn 2000 loại hình, đạt hơn 30 sự phân loại. Thông thường
mà nói, thức uống đem 2 loại hoặc 2 loại trở lên, thông qua phương thức trộn lẫn
nhất định mà thành một loại thức uống có chứa cồn khẩu vị mới, chúng ta đều gọi
là rượu cocktail, thêm vào thành phần (có lợi cho rượu và phụ liệu khác), hương
liệu, thêm chất màu và đồ dùng điều vị đặc biệt theo phân lượng phối chế nhất định
mà thành một loại thức uống hỗn hợp. Từ điển Merriam-Webster của nước Mỹ là chú
thích thế này: rượu cocktail là một loại
rượu lượng nhỏ mà ướp lạnh. Nó là lấy Rum, Whisky hoặc rượu mạnh khác, rượu nho
làm rượu cơ sở, lại phối lấy phụ liệu khác, như nước trái cây, lòng trắng trứng,
vị đắng, đường v.v…để trộn lẫn hoặc cách lắc lư mà thành. Sau cùng tô điểm thêm
miếng chanh hoặc lá bạc hà.
Rượu cocktail rất chú ý đủ cả màu, hương, vị, hình thức,
trước kia lại gọi là rượu nghệ thuật. Phân loại của nó như sau:
1- Phân loại theo thời gian và địa điểm dùng để uống.
(1) Rượu cocktail trước bửa cơm.
Nó là lấy rượu hỗn hợp tăng thêm sự ngon miệng làm
chính, khẩu vị chia làm 2 loại ngọt và không ngọt. Như Martini được gọi là thủy
tổ rượu hỗn hợp và Manhattan
thì thuộc về loại này.
(2) Câu lạc bộ rượu cocktail.
Nó dùng ở bửa cơm chính (bửa cơm trưa, cơm tối), hoặc
lúc cung cấp thay đổi món ăn. Rượu hỗn hợp loại này màu sáng tươi đẹp, vừa giàu
dinh dưỡng vừa có tính kích thích, như Clover Club Cocktail.
(3)Rượu cocktail sau bữa cơm.
Gần như tất cả rượu cocktail sau bữa cơm đều là rượu vị
ngọt, như rượu cocktail Alexander.
(4)Rượu cocktail bữa cơm tối.
Lúc bữa cơm tối rượu cocktail dùng để uống thông thường
khẩu vị rất cay, như rượu cocktail Absinthe của Pháp.
(5)Rượu cocktail sâm banh.
Nó dùng để uống trên tiệc rượu chúc mừng, trước tiên
đem đủ loại vật liệu điều chế rượu hỗn hợp để vào trong ly sẳn sàng điều chế, đến
lúc dùng rót vào lượng sâm banh thích hợp là được.
2- Phân loại theo phương pháp hỗn hợp.
(1) Loại uống ngụm nhỏ (Short Drink).
Uống ngụm nhỏ là chỉ một loại thức uống có chứa cồn,
hàm lượng cồn tương đối cao, mùi vị hương liệu đậm đà, chổ dung lượng để dùng sử
dụng thông thường không vượt qua 4.5 ao xơ (đơn vị đo lường của Anh, Mỹ = 28.35
gam). Khẩu vị tiêu chuẩn thông thường không bọt khí, cần uống hết trong khoảng
thời gian ngắn, tửu lượng khoảng 60ml, 3 – 4 hớp uống hết, không thêm đá, trong
10 -20 phút không thay đổi vị. Nồng độ cồn của nó tương đối cao, thích hợp dùng
để uống trước bữa ăn. Như Martini, Manhattan
đều thuộc về loại này, thông thường dùng ly ngắn cung cấp.
(2) Loại uống hớp dài (Long Drink)
Dùng rượu mạnh, nước trái cây, nước có ga v.v….điều chế
hỗn hợp, hàm lượng cồn tương đối thấp, dung lượng đồ đựng thường là ly cao 6 ao
xơ trở lên. Đồng thời có thể dùng điều chế thức uống có bọt khí, hơn nữa uống hớp
dài là khẩu vị đối lập với nhau của tuyệt đại đa số. Loại uống hớp dài là một
loại rượu hỗn hợp ôn hòa, để 30 phút cũng không thể ảnh hưởng phong vị, Lúc uống
thêm đá, dùng ly chân cao, thích hợp dùng để uống lúc ăn cơm hoặc sau bữa cơm.
Ly dùng là lấy tên của loại rượu đặt tên, như Collins, đều để ở trong ly
Collins (uống hớp dài).
(3)Loại uống nóng (Hot Drink).
Khác biệt lớn nhất cùng rượu hỗn hợp khác là dùng nước
đang sôi, cà phê hoặc sữa bò nóng pha đổi như Toddy Grog v.v….
3. Phân loại theo dùng rượu cơ sở.
Theo chổ dùng rượu cơ sở khác nhau, đem nó chia làm loại
Whisky, loại Gin, loại cô nhắc, loại Ortega, loại Rum, loại Tequila và loại
khác.
4. Phân loại theo thành phần cồn của nó, khẩu vị nóng
lạnh.
(1) Thức uống không thay đổi.
Một loại cocktail chứa thành phần cồn tương đối cao.
(2)Thức uống tính mềm dẽo.
Thức uống nước chanh, nước cam v.v….đều chế không chứa
cồn hoặc thêm một chút cồn.
(3)Thức uống lạnh.
Nhiệt độ khống chế ở khoảng 60°C - 80°C, lấy Hot
Whisky to Day có tính đại diện nhất.
Ngoài ra, vị của cocktail có thể chia làm 5 loại, tức
là, ngọt, cay, ngọt vừa, cay vừa, chua. Trên thế giới đủ loại rượu cocktail ước
khoảng có 2000 – 3000 loại, phương pháp phân loại cũng nhiều loại nhiều kiểu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Rất cám ơn sự góp ý của bạn