Chương thứ tư: Lễ rượu và Tục rượu
Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014
Trung Quốc vốn có vinh dự “nước của lễ nghi”. Từ xưa đến
nay, lễ đã trở thành toàn bộ chuẩn mực, toàn bộ quy tắc ảnh hưởng rất lớn đối với
sản xuất cuộc sống xã hội mọi người, còn thẩm thấu đến chế độ chính phủ, luân
lý đạo đức, ma chay cưới xin, phong tục tập quán nhiều phương diện. Vì vậy,
hành vi rượu tự nhiên cũng đưa vào đường ray của lễ, nhận được bó buộc của lễ, còn
nảy sinh lễ rượu. Nó là dùng để thể hiện sang hèn, tôn ti, già trẻ trong hành
vi rượu thậm chí tổng hợp quy tắc lễ nghĩa đủ loại trường hợp khác nhau, thông
thường cần chú ý 6 điều kỵ như sau: không chuốc rượu một cách thỏa đáng; “quyết
đoán hoặc hung hăng” hoặc “giậu đổ bìm leo”; nói năng tùy tiện, miệng không
ngăn cản; tranh luận cải nhau; nôn mữa tại chổ hoặc ngủ gật; uống là không nghĩ
còn quên đi “vừa phải thì thôi”. Còn uống rượu ở cổ đại thì được đưa vào đường
ray của lễ, “phi tửu vô dĩ thành lễ, phi
tửu vô dĩ thành hoan”. Lật mở 3 quyển kinh điển nhà nho “Chu Lễ”, “Nghi Lễ”,
“Lễ Ký” không có một trang nào không nhắc đến lễ, gần như cũng không có một
trang nào không nhắc đến rượu: tế tự phải dùng rượu, uống yến tiệc phải dùng rượu,
dùng rượu gì, lúc nào dùng rượu, dùng bao nhiêu rượu, dùng rượu như thế nào,
quy định rất là rõ ràng, làm cho chúng ta cảm thấy kinh ngạc.
Tóm lại, lễ rượu xưa nay trong ngoài không đạt đến tận
cùng như nhau, nhưng đều cần thấy là quan niệm, hành vi và hiện tượng, mục đích
của nó là nhận được hiệu quả tốt. Vì chổ này, lý cần làm đến thái độ thành khẩn,
tức là phải tôn trọng bản thân, càng phải tôn trọng người khác.
I/ Lễ rượu cổ đại.
1- Lễ của thờ
cúng.
“Quốc chi đại sự,
duy tự dữ nhung” đây là kẽ thống trị các triều đại khai nhận tất cả.
Nhung (戎) tức binh nhung dùng
cho yên ổn họa ngoại xâm, trấn áp phiến loạn, giữ gìn trật tự thống trị và an
ninh xã hội, được xem là việc lớn hàng đầu, còn thờ cúng cũng là việc lớn hàng
đầu, để cho con người không thể không thán phục thông minh của kẽ thống trị.
Nói rõ ra, nhung là một cánh tay của võ, là sức; thờ cúng là một cánh tay của
văn, là lễ. Một văn một võ, lúc căng lúc chùng, luân phiên sử dụng, hợp tác chặt
chẽ, thế là thiên hạ thái bình, kẽ thống trị đã có thể quên mọi lo nghĩ.
Tế tự ở Trung Quốc cổ đại có rất nhiều nội dung, thiên
địa quỹ thần, ngày tháng núi sông (nhật nguyệt sơn xuyên), liệt tổ liệt tông, đều
cần hưởng thụ thờ cúng. Các loại thờ cúng có tên gọi không giống nhau, nhưng có
một điều là chung, chính là hễ thờ cúng bắt buộc có rượu, rượu ở trong cả một
quá trình thờ cúng kẻ đóng vai trò chủ yếu.
Hoạt động thờ cúng của kẻ thống trị tách không khỏi rượu,
hoạt động thờ cúng của người dân phía dưới cũng thiếu không được rượu. Thuận
theo nâng cao của phổ biến kiến thức khoa học, trình độ nhận thức mọi người, tiến
bộ của xã hội, hoạt động thờ cúng của dân gian đã mất đi nhiều. Nhưng dù cho
như vậy, chúng ta vẫn thỉnh thoảng có thể nhìn thấy đến hoạt động thờ cúng của
dân gian, mà chỉ cần có thờ cúng thì vẫn sẽ nhìn thấy đến rượu, có thể thấy rượu
và thờ cúng đã tách không rời.
Chuẩn bị rượu trước thờ cúng.
“Phàm trị nhân
chi đạo, mạc cấp vu lễ. Lễ hữu ngũ kinh, mạc trọng vu tế”.
Tế là đầu của
ngũ kinh, một chút mập mờ không được, đương nhiên phải trịnh trọng sự việc của
nó. Cổ nhân trước lễ tế phải làm tốt nhiều việc chuẩn bị: đầu tiên nơi thờ cúng
phải quét dọn sạch sẽ, nhà miếu từ đường ngoài phủi quét ra, nếu như có hư hỏng
còn cần sửa lại cho tốt; người cúng tế việc đầu tiên phải tắm gội thay quần áo,
để bày tỏ lòng thành khẩn; dụng cụ thờ cúng phải giặt rửa, xử lý, không thể giảm
thiếu; tam sinh (bò, dê, lợn) và rượu dùng tế tự là quan trọng nhất, không thể
thờ ơ; bò, dê, lợn bắt buột giết sống, gia súc chết tuyệt đối không được dùng,
đó là hành vi phạm tội đại phản nghịch. Còn về dùng rượu, càng là đáng được chú
ý, lấy Chu Đại làm ví dụ. Theo “Chu Lễ” ghi chép: quan viên phụ trách quản lý lễ
cúng tế quốc gia long trọng gọi là Đại Tông Bá, Đại Tông Bá dưới quyền có hàng
loạt quan viên làm trợ thủ, phối hợp giúp đở ông ta phụ trách quản lý lễ thờ
cúng long trọng, trong đó có chuyên môn quản lý đồ dùng lễ (Từ Tôn Di), chuyên
môn quản lý bàn ghế (Tư Kỷ Diên), chuyên môn quản lý đồ làm bằng ngọc và bảo vật
(Thiên Phủ), chuyên môn quản lý mũ áo thiên tử cúng tế (Tư Phục) v.v…. Mỗi một
khâu có thể nói phân công rõ ràng, chức trách rõ ràng. Còn quan viên chuyên môn
phụ trách cung ứng rượu gọi là Tửu Chính, trực thuộc Thiên Quan, trách nhiệm của
nó là phụ trách quản lý tất cả lệnh có liên quan về rượu và nguyên liệu làm rượu.
Bao gồm rượu do việc công cần, do Tửu Chính phát cho nguyên liệu dùng ủ nấu,
quan viên có liên quan dùng làm tự mình ủ nấu. Bình thường, thiên tử thiết yến
chiêu đãi quần thần, ban thưởng yến tiệc người cao tuổi, công thần, con
cháu…..do Tửu Chính chuẩn bị theo quy định, phụ trách cung ứng; cứ đến có tế tự,
cũng do Tửu Chính phụ trách chuẩn bị rượu. Do bị điều kiện kỹ thuật hạn chế, chất
lượng rượu thời đó không như ngày nay, đều có cặn bả. Còn theo trình độ mức độ
trong đục đem rượu chia làm 5 hạng, gọi là “ngũ tề”, từ đục đến trong theo thứ
tự là: phiếm tề, lễ tề, ang tề, đề tề, thẩm tề. Ngũ tề này chuyên dùng dâng lễ
cúng tế. Ngoài ra còn có thuyết của “Tam Tửu”: rượu nấu đến lúc có việc là sự tửu, ủ nấu thời gian tương đối dài là
tích tửu, rượu thời gian ủ so với tích tửu càng dài hơn, thông thường mùa đông
năm trước ủ mù hè năm sau dùng để uống gọi là thanh tửu. Tam tửu này chủ yếu
là sau thờ cúng cung cấp con người dùng để uống. Trước tế tự, ngũ tề, tam tửu đều
phải chuẩn bị cho tốt. “Phàm tế tự, dĩ pháp
cúng ngũ tề tam tửu, dĩ thực bát tôn” (“Chu Lễ.Thiên Quan Chủng tế”), số lượng
giải thích rất là rõ ràng, phải chất đầy 8 cái bình to. Điều này vẫn chưa hết,
còn có qui định càng cụ thể: tất cả tế tự lớn cúng Thượng Đế, Tiên Vương có thể
thêm rượu 3 lần; tế tự vừa tế tứ vọng núi sông, có thể thêm rượu 2 lần; Tế tự
nhỏ tế thầy mưa gió, chỉ có thể thêm rượu 1 lần. Dùng rót rượu đựng ở bình, đều
có số lượng qui định.
Xếp rượu và lỗi rượu (lấy rượu tưới xuống đất để tế).
Tế trời đất núi sông thông thường để ở ngoài trời, ví
dụ như đế vương các triều đại đều trong lòng mong mỏi Thái Sơn phong thiện
(phong là tế thiên, thiện là tế đất), không từ chối vất vả cực nhọc, ngàn dặm
xa xôi chạy đi đến Thái Sơn cử hành là để cúng tế ngoài trời. Còn tế tổ tiên thông
thường đều ở trong nhà, thiên tử ở thái miếu, người dân ở trong nhà (hoặc gọi
là gia miếu). Tế tự ngoài đồng, phương pháp trưng bày rượu ghi chép không rõ; thờ
cúng trong nhà, trưng bày rượu qui định rất là rõ ràng: “Nguyên tửu tại thất, lễ thố tại hộ, tư tề tại đường, trừng tửu tại hạ”.
(“Lễ Ký.Lễ Vận”)
Nguyên tửu chỉ nước; lễ, lạc chỉ lễ tề, áng tề trong
ngũ tề; tư tề chỉ đề tề trong ngũ tề. Nước trong suốt không màu, trong nhất,
cho nên ở trên nhất. Lễ, tạc, tư tề, trừng tửu màu sắc nhạt mờ so với nhau, thế
là theo lần lượt hướng xuống dưới.
Cái gọi là thất, hộ, đường và đặc điểm kiến trúc cổ đại
Trung Quốc có liên quan với nhau. Kiến trúc cổ đại Trung Quốc, thường là kết cấu
nhà chính phòng, lưng quay về phía bắc nhìn về phía nam, nhà chính và phòng xây
ở cùng một nền nhà. Lớn nhỏ cao thấp của nền nhà, quyết định ở tôn ti địa vị chủ
nhân, chủ nhân địa vị cao, thì bậc thềm nền nhà cao to, ngược lại thì bậc thềm
nền nhà thấp nhỏ. Bên trên của nhà chính và phòng là cùng một mái nhà che phủ,
nhà chính ở trước, phòng ở phía sau, giữa nhà chính và phòng cách nhau một bức
tường. Bên ngoài tường thuộc về nhà chính, bên trong tường thuộc về phòng. Bức
tường này sát phía tây có cửa sổ, sát phía đông có cửa vào. Ba mặt đông, tây, bắc
của nhà chính có vách tường, vách phía đông gọi là tường đầu hồi nhà phía đông,
vách phía tây gọi là tường đầu hồi nhà phía tây, phía nam gần sân mở rộng, kiểu
dáng giống như sân khấu của ngày nay, chính giữa của nhà chính thông thường có
2 cây cột sáng to (cột cái), trên nhà chính không người ở, là nơi nghị sự, hành
lễ, giao tế. Buồng ngủ người ở, miếu thất tế lễ. Nhưng đối với người dân thông
thường phía dưới mà nói, không có chú ý nhiều như thế, có thể có được một chổ ở
che gió tránh mưa là quá tốt rồi.
Hoạt động tế tự thông thường ở trong phòng tiến hành.
Mở cửa phòng đi vào, thẳng trước mặt nhìn thấy đến là vách tường phía tây của
phòng, đó là nơi cúng bài vị tổ tiên, tôn quý nhất, chính là “nguyên tửu tại thất”.
Lẽ đương nhiên, “trừng tửu tại hạ”, thì chỉ phía dưới của nhà chính, là chỉ vị
trí thấp nhất. Tôn ti trên dưới là hạt nhân của lễ giáo, còn ở trong hoạt động
thờ cúng biểu hiện rõ ràng nhất. Người xưa thứ tự chổ ngồi trong nhà lấy hướng đông
làm thượng, chổ khác mới là hướng nam, hướng bắc và hướng tây. Cho nên, bài vị
thần chủ đều là đặt để ở hướng đông để cho con người quỳ lạy. Nếu như có người
quan hệ gia thế kéo dài, nhân khẩu thịnh vượng, bài vị thần chủ để trên tường
phía đông không hết, thế thì cũng có cách, phân chiêu mục sắp xếp, người chủ
ban đầu vẫn ở tường phía đông không thay đổi, phía dưới phụ, tử (tổ, phụ) theo
thứ tự làm chiêu mục, bên trái là chiêu, bên phải là mục, lần lượt sắp xếp, cũng
chính là bài vị tổ đời thứ 2, 4, 6 ở hướng nam, bài vị tổ đời thứ 3, 5, 7 ở hướng
bắc. Khi tế tự, con cháu cũng theo qui định này xếp hàng hành lễ, “tế hữu chiêu
mục, chiêu mục giả, sở dĩ biệt phụ tử, viễn viễn, trưởng ấu, thân sơ chi tự nhi
vô loạn”. (“Lễ Ký.Tế Thống”)
Khi tế tự phải dâng lễ 3 lần rượu, gọi là tam hiến, vừa
dâng lễ trong miệng còn phải cầu khấn, không được không có tiếng. Lần thứ nhất
dâng tặng phiếm tề, lần thứ hai dâng tặng lễ tề, lần thứ ba dâng tặng áng tề.
Quan đại phu và người có học không thể giống như thiên tử, chư hầu thờ thần chủ,
đối tượng cung phụng của họ là xác. Xác này không phải là xác của thể xác, mà
là tấm lòng của chủ. Thờ cúng tổ tiên không gặp hình tượng người thân đã mất,
tâm tình thương tiếc ngưỡng mộ khó mà thổ lộ, thế là bắt đầu lấy một người
trong anh em là xác chủ, dùng người đó để thay thế hình tượng của người đã mất,
làm mục tiêu thực hiện tôn kính hành lễ tế, hậu thế dùng bức chân dung thay thế
cho “xác”. Người cúng lễ hướng về “xác” hành lễ tam hiến, để bày tỏ lòng thành
khẩn. Một thủ tục sau cùng của lễ tế tự là tưới rượu xuống đất. Lời Tô Thức có:
“nhất tôn hoàn lỗi giang nguyệt” (“Niệm
Nô Kiều. Xích Bích Hoài Cổ”), do ở trên trường giang, đương nhiên chỉ có thể
đem rượu tưới sông trăng. Thông thường tế tự đều phải lấy rượu tưới đất, sau cầu
chúc bắt buộc lấy rượu tưới đất, mới có nghĩa là kết thúc thờ cúng, người cùng
tế mới có thể bắt đầu ăn uống, nếu không thì tế tự không thể xem là kết thúc.
Tưới rượu trên đất cũng có nghi thức, bắt buột vẽ mặt nghiêm túc cung kính, tay
nâng lên chén nhỏ, lặng lẽ đọc lời cầu xin, sau đó đem rượu chia ra đổ 3 điểm
trái, chính giữa, phải, rồi lại đem rượu còn dư tưới nữa vòng tròn, hình thành
một chữ tâm 3 chấm một móc dài, biểu thị lễ của lòng dâng tặng.
2. Lễ mời yến ẩm.
Yến “宴”, ở trong cổ tịch
cũng cùng Yên “燕”. Còn diên “筵” chủ ý là chỉ chiếu
ngồi trải trên đất, về sau kéo dài là yến. Cho nên, yến ẩm, yên ẩm, diên ẩm, ở
trong mắt người xưa là cùng một việc.
Người Trung Quốc hiếu khách, thường yến tiệc chiêu đải
khách. Phong cách thiết yến dài lâu mãi mãi, nối tiếp không ngừng, trên có
thiên tử chư hầu, dưới có người lái buôn lao động, kéo xe bán tương, người người
đều thiết yến, dự yến. Đi theo hoạt động yến ẩm, nảy sinh ra rất nhiều lễ tiết
tương ứng.
Vào chổ ngồi, cổ nhân thiết yến đối với sắp xếp thứ tự
chổ ngồi rất là coi trọng, chủ nhân ngồi chổ nào, người khách ngồi chổ nào, đều
có qui định nghiêm ngặt, ngồi lung tung thì bị chê khách lấn át chủ, kẻ dưới
xâm phạm bề trên. “Sử Ký. Hạng Vũ Bản Ký” ghi chép quan niệm cao thấp sắp xếp
thứ tự chổ ngồi. Trên yến ẩm Hồng Môn, Hạng Vũ, Hạng Bá ngồi hướng đông, Á Phụ
(Phạm Tăng) ngồi hướng nam, Bái Công ngồi hướng bắc, Trương Lương hầu hướng
tây, mà mặt nam là thượng, ngồi là Á Phụ Phạm Tăng, biểu hiệu rõ ràng tôn kính
của Hạng Vũ đối với Phạm Tăng, Trương Lương địa vị thấp nhất, không thể gọi là
ngồi mà gọi là hầu, ý nghĩa giống như người hầu cận của ngày nay.
Yến ẩm bắt buộc luận tư cách sắp xếp vai lứa, để phân
biệt cao thấp già trẻ. Nam bắc phương thứ tự chổ ngồi tuy rằng hơi không giống
nhau, nhưng ghế hàng đầu thì hoàn toàn như nhau. Giống nhau là ghế hàng đầu,
còn có phân biệt trái phải, lấy phải là cao quý. Như “Sử Ký. Hán Văn Đế Ký” thì
có ghi chép hữu hiền tả thích: hữu và tả ở đây, chú thích của cổ nhân Vi Chiêu
là hữu giống như cao, tả giống như thấp. Nhan Sư Cổ chú: Hữu diệc thượng dã. Tiếp
tục như trước đây cổ chế, con người ngày nay cũng chổ ngồi bên phải là chổ ngồi
cao quý, cho dù phương bắc phương nam, thứ tự chổ ngồi xếp theo thứ tự, mặt bên
phải của nó đều là số lẽ, còn mặt bên trái của nó đều là số chẳn. Nhưng phân
chia trái phải chẳng qua là tương đối mà nói, nó vẫn phải phục tùng phân chia của
trên dưới. Khi yến tiệc, bắt buột phải người ngồi trên sau khi ngồi vào chổ, số
người còn lại mới có thể ngồi vào chổ, nếu không bị người cho rằng là thất lễ.
Thời đại phát triển đến ngày nay, kiểu dáng kiến trúc, kiểu dáng đồ dùng trong
nhà đều phát sinh rất nhiều biến đổi, lễ tiết cũng phát sinh nhiều biến hóa,
hoàn toàn làm theo lễ nghĩa yến tiệc người xưa đều không cần thiết, cũng rất
khó khăn. Thế là, mọi người ở trong cuộc sống thường ngày dần dần hình thành lễ
nghĩa thứ tự chổ ngồi mềm dẽo, mới. Người xưa ở trên nhà chính hướng nam là cao
quý, ở trong phòng lấy đông làm cao quý, nói toạc ra chính là mặt đối diện cửa
ra vào, tầm nhìn không bị ngăn cản là quý, con người ngày nay tiếp tục như lễ
nghĩa này, để mặt đối diện với cửa ra vào chổ ngồi cao quý nhất, không còn quản
đến đông tây nam bắc. Ngộ nhỡ chổ ngồi mặt đối diện cửa không thật rộng rãi,
thì lấy chổ ngồi rộng rãi nhất, ít bị quấy rối nhất làm chổ ngồi cao quý, đem
khách quý sắp xếp ngồi ở đây, để bày tỏ tôn kính đối với khách. Đương nhiên, lễ
nghĩa người khách vào chổ ngồi trước vẫn như cũ không thay đổi.
Hiến báo thù, sau khi vào chổ ngồi, chủ nhân phải trước
tiên rót rượu cho khách, để bày tỏ lễ phép. Thứ tự rót rượu là lớn trước nhỏ
sau. Tục ngữ nói: trà cạn rượu đầy,
rượu có thể rót nhiều hơn so với trà, nhưng cũng lấy tám phần không tràn là
kính. Sau khi rót rượu xong cho từng người khách, chủ nhân mới rót rượu cho
mình. Có người chủ không quen uống, thậm chí giọt rượu không thể thấm, thì có
thể nhờ một người bạn thân uống giỏi thế làm bồi ẩm, cũng có thể lấy trà hoặc
thức uống khác thế rượu, nhưng bất luận là bồi ẩm hoặc thế rượu, chủ nhân đều
phải chủ động hướng về khách xin phép, chứng minh được người khách đồng ý, nếu
không thì là thất lễ.
Khi yến ẩm chính thức bắt đầu, chủ nhân nhất định trước
tiên cung kính đứng nghiêm trang, nâng ly rượu lên hướng về khách kính rượu,
đây gọi là hiến, người khách cũng nhất định đứng dậy nâng ly rượu lên biểu thị
kính trở lại. Chủ nhân miệng nói: cạn trước làm kính, đem rượu trong ly một hớp
uống hết, sau đó đem ly rượu úp ngược biểu hiện lòng thành đãi khách một giọt
không còn, khách lần lượt hưởng ứng, cũng đem rượu của mỗi người uống cạn.
Khách uống xong, cần quay lại kính chủ nhân, lại rót rượu cho chủ nhân và rót
rượu cho mình, đây là báo (cũng gọi là rót). Sau đó để cổ vủ khách uống nhiều,
chủ nhân lại uống trước để đề xướng, gọi là thù. Loại lễ nghĩa này, nguồn gốc
đã lâu, đến ngày nay vẫn đang lưu truyền theo. Cổ nhân quen chiếu đất mà ngồi,
hiện tại chổ thấy là bàn ghế, thời Nam Tống mới phổ biến chọn dùng. Trước Nam Tống,
do nguyên nhân tư thế ngồi, yến ẩm lúc cạn ly khách chủ đều không đứng dậy, tự
mỗi người giơ ly, mời cùng nhau uống chính là xem như cạn ly. Con người ngày
nay cạn ly, thường phải cụng ly, mà còn phải cụng ra tiếng vang, gặp đến cụng
ly, chủ khách đều phải đứng dậy cả, mặt hướng về đối phương nhìn thẳng vào nhau,
mới xem như là lễ phép, còn không thì là thất lễ.
3. Lễ làm khách.
Lễ làm khách có rất nhiều, “Lễ Ký” đã có qui định tỉ mỉ.
Có thể theo ánh mắt của ngày nay mà thấy, nó thật là vụn vặt đến lợi hại, nếu muốn
làm được toàn bộ quả thực quá khó mà còn không có cần thiết, nhưng gạt bỏ bộ phận
không hợp lý của nó, bộ phận hợp lý vẫn là nên kế thừa. Trên thực tế, trong cuộc
sống chúng ta ngày nay có rất nhiều lễ tiết làm khách cũng quả thực là từ trong
các loại sách cổ tịch “Lễ Ký” truyền kế thừa lại.
Lễ làm khách theo thứ tự yến ẩm đại thể có nội dung
như sau:
Trước yến ẩm, phải trau chuốt làm tốt chuẩn bị, áo mũ
sạch sẽ, không nên đến muộn, để tránh cho chủ nhân và người khách khác đợi lâu,
cho dù do nguyên nhân đặc biệt nào khác mà đến muộn, sau khi đến nơi cũng nên
chủ động hướng về chủ nhân và người khách khác giải thích, còn bày tỏ áy náy,
vì đây thể hiện thành ý và tu dưỡng của bản thân.
Khi ngồi vào chổ, nên đợi chủ nhân chào hỏi mới ngồi
vào chổ, phải tránh qua loa đại khái trong mắt không có người, tùy tiện tìm một
vị trí ngồi xuống, đó là thất lễ. Khi chạm ly, ly rượu của khách để hơi thấp ly
rượu chủ nhân, ly rượu của tiểu bối thấp hơn ly rượu của trưởng bối, vì đây là
kính. Khi cạn ly, bắt buột đứng lên nhìn thẳng vào đối phương, chạm vang tiếng
ly còn uống hết rượu trong ly của mình, mới có thể ngồi vào chổ ngồi. Có người
không thắng được sức rượu, gặp đến có người kính rượu cạn ly không đứng dậy,
đây là thất lễ. Cho dù không uống được, cũng phải giơ ly đứng dậy đáp lễ, bày tỏ
cám ơn.
Tửu phùng tri
kỷ thiên bôi thiểu, trên tiệc rượu
thường sẽ nhìn thấy đến loại tình cảm nhiệt liệt hăng cao này, mỗi khi đến lúc
này, khách cần kịp thời nhắc nhở bản thân nắm vửng chừng mực. Rượu là thức uống
đặc biệt, dù có ích cho người, cũng có hại cho người, là có ích hay là có hại
toàn bộ nằm ở trong tay. Khách có thể thích hợp chuốc rượu, không thích hợp nhiều
lần khuyên giải, tửu lượng khách không giống nhau, liên tiếp chuốc rượu không
tránh say ngã, bất luận là tự mình hay là người khác say ngã, đều là thất lễ.
Có người cho rằng trên tiệc rượu không thể không có người say ngã mới tuyệt
hay, liều mạng chuốc rượu, thậm chí giả cầm, lấy nước thay rượu v.v…., để tưới
say đối phương, đây chính là hiện ra điểm hứng thú trò đùa quá lố.
Lúc yến ẩm, phải chú ý khiêm nhường, đặc biệt đối với
người già, phụ nữ, trẻ em, nhìn xem họ thích ăn gì, thích hợp giúp cho chăm
sóc. “Phàm thưởng thức thức ăn xa, bắt buộc ăn thức ăn gần”, chú ý người ăn
cùng bên, không thể chỉ lo bản thân không lo người khác.
II- Tục rượu cổ đại.
Ở trong trường hà phát triển lịch sử mênh mông, mọi
người vì nhu cầu của cuộc sống và sản xuất, phải quan hệ qua lại với nhau. Kết
quả của quan hệ qua lại lẫn nhau chính là đã nảy sinh một số lễ tiết và thời
thượng thành phong tục ước định, loại lễ tiết và thời thượng này chính là phong
tục. Nó tuy rằng không là thủ đoạn pháp luật cưỡng chế thi hành, lại có sức
ràng buộc to lớn, và hiện tượng văn hóa của nó như nhau cũng đang để lại dấu ấn
của giai cấp thống trị. Lấy tục rượu làm ví dụ, thì có không ít nội dung mê tín
phong kiến.
Người Trung Quốc uống rượu đã có truyền thống mấy ngàn
năm, người uống rượu trên có giữa vua tướng, quan to nhà buôn lớn, dưới có lái
buôn người lao động đưa thư, hàng phố tiểu dân, bề mặt tầng lớp xã hội rộng như
vậy, cơ hội uống rượu tự nhiên có nhiều, ma chay cưới xin, thiếc tiệc tẩy trần,
làm nhà làm mái, mừng có quý tử v.v…., có thể nói cuộc sống thường ngày người
Trung Quốc và hoạt động xã hội đều cùng rượu kết duyên xuống rồi không tách ra
được, còn hình thành tục rượu phong phú nhiều màu sắc.
1.Tục cưới xin.
Cưới xin là việc lớn trong cuộc sống. “Đêm động phòng
hoa chúc” là một việc đại hỉ trong một đời văn hóa cổ đại, rất được xem trọng.
Trong “Nghi Lễ” đã ghi chép có một quyển “Hôn “昏”
(Hôn “婚”) Lễ”, không coi là xấu qui định rườm rà nhiều vụn vặt
của nó mà lại tiếp tục thủ tục trang trọng, phản ánh xem trọng của mọi người đối
với dựng vợ gã chồng.
Tục kết hôn cổ đại đại thể phải trải qua mấy quá trình
thế này: (1) Nạp thái (đưa sính lễ đến nhà gái): hai nhà trai gái phải trải qua
người làm mối trao đổi với nhau ý muốn. (2) Nạp cát: nếu như hai bên vừa ý, thì
có thể chọn ngày lễ đính hôn. (3) Nạp trưng: Sau ngày lễ đính hôn, lại qua một
khoảng thời gian thì có thể đưa lễ vật ăn hỏi, đồ cưới của cô dâu. (4) Dựng vợ
gã chồng: chính là thông gia của hai gia đình, lòng mong muốn chủ quan người lớn
hai bên gia đình đều là vì con cái tốt đẹp, cho nên thông thường phía nam sau lễ
đính hôn, phía nữ bắt buộc có xác định trở lại, phía nam ra lễ vật ăn hỏi, phía
nữ nhất định có của hồi môn lấy chồng. (5) Xin kỳ hạn: tiếp theo chính là xác định
ngày đón dâu. (6) Đón thân: cũng gọi là đại lễ, tiếp liền theo, chính là nhà
trai đón lấy tân nương, đó thích hợp là tưng bừng gay go.
Sau cùng, sau nghi thức hoàn tất trên hỉ đường, chúng
bạn thân và khách chúc mừng lần lượt vào chổ ngồi thoải mái uống rượu mừng, hôn
lễ tiến vào đỉnh cao. Trên chiếu rượu, mọi người nhất định muốn hai người mới
quấn chặt uống rượu giao bôi. Rượu giao bôi xưa gọi là hợp cẩn, chính là dùng
quả bầu (hồ lô) chia làm hai, xem là ly rượu. Khi hôn lễ dùng dây lụa màu nối
liền cán bê của cẩn, hai người sau khi uống rượu hợp thành một thể, tượng trưng
vợ chồng tương thân tương ái, gió mưa đồng thuyền. Tập tục này đến Tống Đại mới
đổi dùng 2 chiếc ly, nhưng vẫn dùng dây hồng nối liền, vợ chồng mỗi người uống
một ly, để bày tỏ xum họp. Hợp cẩn cũng từ đây đổi gọi là rượu giao bôi. Vợ chồng
mới ngày này nhất định là vừa phấn khởi vừa ngượng ngùng, tất cả hành động tùy
ý bạn thân sắp xếp. Có nơi đối với cái ly của rượu giao bôi xử trí rất thú vị,
phải đem cái ly ném ở dưới giường, kiểm tra nó úp hay ngữa, nếu như ly một úp một
ngữa, thì có nghĩa là trời đất che chở, âm dương hài hòa, là điềm của đại cát đại
lợi, các bạn thân sẽ nhiệt liệt chúc mừng. Nhưng một úp một ngữa không thể mỗi
lần đều được như ý, về sau dứt khoát một úp một ngữa để sẳn ở dưới giường, chọn
lấy điềm của đại cát đại lợi, các bạn thân đương nhiên chúc mừng như cũ, vén
lên cao trào sau cùng của hôn lễ.
2. Tục rượu ra đời.
Kết cấu gia
đình Trung Quốc đều là lấy quan hệ huyết thống làm sợi dây nối liền hợp thành,
đẻ con trai vào nhà có nghĩa là quan hệ huyết thống đạt đến kế thừa, gia tộc tiếp
tục nhận được bảo đảm. Cho nên trẻ sơ sinh còn chưa hạ sinh, sẽ có thể gợi ra
xem trọng của cha mẹ, và cả gia tộc, bận rộn chuẩn bị tả lót vật dụng, suy nghĩ
một cách vui phơi phới đặt cho con trẻ một cái tên tốt lành và thuận lợi.
Trẻ sơ sinh vừa mới hạ sinh, tiếp theo liền có nghi thức
cầu chúc tương đối long trọng. Lễ nghi trẻ sơ sinh ra đời và lễ nghi khác không
giống nhau ở chổ thời gian duy trì tương đối dài, từ lúc trẻ sơ sinh ra đời mãi
đến đầy tuổi, nội dung chủ yếu của nó có đầy tháng, trăm ngày, đầy tuổi. Rượu đầy
tháng, ngày đầy tháng con trẻ, trong nhà có cúng tổ tế thần, bày rượu mời
khách, yến tiệc rượu này thì gọi là rượu đầy tháng. Đúng giờ con trẻ, người mẹ ẵm
con trẻ đi ra đón nhận chúc mừng của bạn thân, trong nhà phải hướng về người
cùng làng bạn thân biếu tặng trứng gà đỏ nhuộn màu đỏ, con trẻ đầy tháng nhất định
phải cắt tóc. Cắt tóc cũng rất cần chú ý, do trẻ sơ sinh thóp trán mềm mại,
không thể cạo, chỉ đem xung quanh cạo sạch, để làm cho thuận lợi may mắn, rất
nhiều nơi cho thợ cắt tóc khi cắt tóc có thêm khao thưởng. Sau khi cắt tóc
xong, bạn thân phải ở tại chổ luân phiên ẵm đứa trẻ một cái, sau đó xoay quanh
ngồi xuống uống rượu đầy tháng. Theo lệ thường, trưởng bối bạn thân tham dự uống
rượu đầy tháng phải cho trẻ sơ sinh một số lễ vật, như quần áo và đồ dùng hàng
ngày, giày nón và vật may mắn, dựa vào năng lực kinh tế mà định. Vật may mắn thông
thường có cái mõ vàng, vòng tay bạc, chiếc móc ngọc, khóa tuổi thọ v.v…. Khóa
tuổi thọ thường khắc trạng nguyên và đệ (giới hạn con trai), giàu sang sống
lâu, ngũ tử đăng khoa các loại câu từ chúc mừng. Rượu đầy năm, khi trẻ sơ sinh
lớn đến đầy năm, tục gọi là chu tụy, bốc vòng, đắc vòng, ngày này theo thường lệ
phải làm rượu chúc mừng.
Trong “Hồng Lâu Mộng” thì có miêu tả phong tục của “bốc
vòng”, khi Cổ Bảo Ngọc đầy tuổi. “Khi đầy
tuổi, Chính lão gia thử xem chí hướng tương lai của nó, liền đem tất cả đồ vật
trên đời, bày ra vô số kêu nó bốc. Nào ngờ nó nhất thiết không lấy thò tay một
mình đem son phấn vòng trâm bốc lấy đùa bỡn, Chính lão gia liền không vui, nói
tương lai chỉ là đồ đệ của tửu sắc, vì thế không yêu quý lắm”.
3.Tục rượu chúc thọ.
Gặp mười mừng thọ làm rượu thọ, tập tục này nguồn gốc
đã lâu, đặc biệt là bản thân sau 60 năm, sau khi vượt qua, rượu thọ quy mô sẽ
càng lớn. Vì đi quanh một vòng 60 là giáp (60 năm, tính theo can chi), người sống
đến bảy tám mươi tuổi, đều là con cháu đầy nhà, nhà có sự nghiệp có, trên kinh
tế cũng đã không buồn rầu lo lắng, huống hồ người già khỏe mạnh, cũng là phúc của
phận làm con cháu, cho nên các con cháu cũng vui với làm cho tưng bừng thịnh soạn.
Đúng giờ, trên nhà chính thọ treo cao bức tranh thọ tinh, dán lên câu đối chúc
thọ, châm nến thọ, trên bàn thờ để đào mừng thọ, bánh ga tô mừng thọ, mì mừng
thọ, mừng thọ người già thay đổi quần áo mới, giày mới, bê ngồi trước nhà
chính, lần lượt tiếp nhận quỳ lạy của con cháu, không chỉ như thế, nếu như là
người già sống lâu, ngay cả trong hàng xóm cùng làng, bạn bè thân thích đều có
thể đến lạy chúc mừng, hy vọng mong muốn có được chút không khí vui. Lạy thọ
hoàn tất, bày ra tiệc rượu, mọi người uống thoải thích, đương nhiên thọ công
công (bà bà) là nhất định bê ngồi ở chiếu trên.
4. Tục rượu việc tang (việc hiếu)
Việc tang lại gọi là “Bạch hỉ sự”, nó là đối lập với
“Hồng hỉ sự (dựng vợ gã chồng)” mà nói. Việc tang có thể trên cách gọi bạch hỉ
sự có một tiền đề, chính là người chết cần phải sống lâu mà mất, thông thường
nói ở 70 tuổi trở lên. Nếu như tang chồng (vợ) trung niên, người già mất con, đều
thuộc về việc đau lòng, đó không thể gọi là “Bạch hỉ sự”. Theo tập tục thời trước,
người già sau khi quy tiên, cả gia đình phải làm hàng loạt sự việc: tắm xác,
thay quần áo, bày đồ cúng, báo tang, túc trực bên linh cửu chịu tang, nhập liệm
(đặt vào quan tài), đưa tang. Toàn bộ lễ nghĩa kéo dài cả mấy ngày trời, không
chỉ chi phí nhiều, người làm việc cũng rất là cực khổ. Nói tục lễ mai táng thời
trước tốn công tốn của, hoàn toàn không quá đáng. Ở trong quá trình lo lễ tang,
tang gia nhất định làm mâm rượu. Bàn tục rượu này gọi là “cơm đậu phụ”, thức ăn
lấy đồ ăn chay sẳn có làm chính, người đi đến bàn tiệc vẫn còn ở trong đau lòng
của việc tang. Cho nên, theo lệ không thể đánh đố (phạt bằng rượu), đố rượu
(người thua phải uống rượu) và lớn tiếng ồn ào náo động vui đùa, đương nhiên
cũng không thể ép uống rượu.
Ở Trung Quốc phông tục tập quán rất nhiều do chịu ảnh
hưởng của phát triển văn hóa, kinh tế chính trị xã hội cũng biến đổi theo, nội
dung, hình thức của nó cả đến tình tiết hoạt động đều có biến hóa, duy chỉ có sử
dụng rượu trong phong tục tập quán hiện tượng này thì lần lượt trãi qua các triều
đại vẫn tiếp tục dùng không suy yếu, đồng thời rượu cũng hình thành rất chỉ định
riêng, như:
- Rượu thời kỳ sinh. Sinh nhật người già, con cái nhất
định phải vì ngày này làm rượu thời kỳ sinh. Đúng giờ, bày tiệc rượu lớn, thậm
chí thân thích, bạn thân hàng xóm láng giềng không mời tự đến, mang theo lễ vật
để chúc mừng. Giữa bàn tiệc phải mời nghệ nhân dân gian người giỏi hoa đăng biểu
diễn nghệ thuật hát nói. Ở vùng Kiềm Bắc Quý Châu, người giỏi hoa đăng phải
chia ra hóa trang thành Thiết Quải Lý, Lữ Đồng Tân, Trương Quả Lão, Hà Tiên Cô
tám vị tiên, lần lượt biểu diễn, vừa hát vừa hướng về người sống lâu dâng lên,
quải trường sinh, quạt trường sinh, kinh trường sinh, rượu trường sinh, cỏ trường
sinh các loại lễ vật tự chế, dâng lễ vật đã xong, phải cung kính dâng tặng một
ly rượu, các “người tiên” và người được chúc thọ cùng uống.
- Rượu thân hội. Đến giờ nghi thức đính hôn phải bày
mâm rượu. Uống xong rượu thân hội, bày tỏ hôn sự đã thành quyết định không thay
đổi được, khế ước việc hôn nhân đã có hiệu lực, từ giờ trở đi hai bên nam nữ
không được tùy tiện từ hôn, không nhận hôn nhân.
- Rượu giao bôi. Là lễ nghi thức truyến thống thủ tục
hôn lễ người Trung Quốc. “Giao bôi” ở cổ đại lại gọi là “hợp cẩn” (ý nghĩa của
cẩn là một bầu chia thành hai gáo), “Lễ ký. Hôn Nghĩa” có “hợp cẩn nhi tư”, Khổng
Dĩnh Đạt giải thích nói: “nhất cá hồ phân
thành lưỡng cá biều vị chi cẩn, tế chi dữ phụ các chấp nhất phiếm dĩ tư (tức lấy
rượu súc miệng)”, hợp cẩn lại dẫn dắt sớm nhất có ý nghĩa là kết hôn. Ở Đường
Đại chính là có rượu giao bôi một danh xưng này, đến Tống Đại ở trên lễ nghĩa,
thịnh hành dùng sợi tơ màu đem hai chiếc ly rượu liên kết lẫn nhau, còn tết
thành nơ màu loại nơ đồng tâm, vợ chồng cùng nhau uống một cái ly hoặc vợ chồng
chuyền nhau uống. Còn về “rượu giao cánh”, thì là để bày tỏ vợ chồng tương ái, chính
là ở trên hôn lễ vợ chồng mỗi người cầm một ly, cánh tay giao nhau mỗi người uống
một hớp.
- Rượu hồi môn. Chính là ngày thứ 3 của kết hôn, vợ chồng
mới cưới phải “lễ lại mặt”, trở về nhà mẹ đẻ thăm người bề trên, nhà mẹ đẻ phải
bày yến tiệc chiêu đãi. Rượu lễ lại mặt thông thường chỉ bày một bữa cơm trưa,
sau tiệc rượu vợ chồng sánh đôi đi về nhà.
- Rượu đầy tháng hoặc rượu trăm ngày. Là một phông tục
phổ biến các dân tộc Trung Hoa, đây là phát sinh tự nhiên của nghi thức rượu dựng
vợ gã chồng. Sinh con trẻ lúc đầy tháng hoặc đến lúc một trăm ngày, phải bày mấy
bàn tiệc rượu, mời thân bằng quyến hữu cùng chúc mừng, thân bằng quyến hữu thông
thường đến phải mang lễ vật, cũng có tặng bao đỏ.
- Rượu chải đầu. “Uống rượu chải đầu” thịnh hành một
thời một số vùng, đây là một loại lễ nghĩa của kết hôn. Ba ngày mới cưới, thông
gia của phía nhà gái đến nhà trai, tiến vào nhà chào hỏi, sau đó, ở trong cổng
chào của phía nhà trai dựng xong trước đó chiếu theo già trẻ theo thứ tự ngồi
xuống. Nhà trai bê lên hoa quả chiêu đãi, sau đó lại lên thức ăn, kính rượu.
Nhưng theo yêu cầu phong tục lễ, mọi người đều không đụng đũa, đợi sau khi tân
lang theo bàn dập đầu lạy hành lễ, để phong bao tiền thưởng trên chiếu. Cho nên
mọi người thường đem uống rượu chải đầu gọi là “Vọng yến tịch”
Nguyệt mễ tửu. Phụ nữ trước ngày sanh mấy ngày, phải nấu
một vò rượu gạo, một là để sinh đẻ con cái kích thích tuyến sữa, hai là để
chiêu đãi khách. Con trẻ đầy tháng phải làm nguyệt mễ tửu, ít thì có năm ba
bàn, nhiều thì có hai mươi ba mươi bàn, trên bàn tiệc rượu cất đảm bảo đủ, mỗi
người ngoài ra có một bao quà, trong đựng trứng đỏ, các loại lễ vật phồng căng.
- Rượu lễ bái. Phạm vi liên quan tới tương đối rộng, thông
thường nói đến có 2 loại: một là dựng nhà làm mái, sửa cầu trải đường cần làm tế
bái tửu. Phàm lễ khởi công thi công, có đụng đến tất cả thần núi thần đất, thì
phải mua sắm rượu và thức ăn, ở nơi sắp thi công tế bái thần núi và thần đất. Lỗ
Ban là tiên sư của thợ thủ công, để bảo đảm chắc chắn thuận lợi công trình, cần
lễ bái Lỗ Ban. Nghi thức phải mời người thợ có danh hiệu chủ trì, chuẩn bị đủ
rượu và thức ăn tiền giấy, tế bái để cầu phù hộ. Trong công trình, hễ lên mái dựng
cửa đều có nghi thức long trọng, trong đó rượu là chủ thể. Hai là vào ngày lễ
ngày tết, lúc gặp tai nạn tai họa, phải bày rượu tế bái. Đêm giao thừa, mỗi nhà
mỗi hộ cần chuẩn bị rượu thức ăn thịnh soạn châm hương đốt nến đốt tiền giấy,
xin vong linh tổ tông về uống rượu qua đêm giao thừa. Thời gian này, tất cả người
trong nhà lấy thứ tự già trẻ dập đầu lạy, theo cấp bậc nghiêm trang đứng hầu ở
bên bàn, năm ba phút sau, gia trưởng đem rượu kính cùng với ly, rượu để cúng ở
trên bàn, tế bái mới xem là kết thúc. Ở dân gian, nếu như có tai nạn bịnh đau,
đều cho rằng là đắc tội với thần linh, thì phải cữ hành hàng loạt hoạt động cho
thần vui, cầu xin rộng lượng bỏ đi. Hình thức của nó vẫn là mua sắm rượu thức
ăn, mời thầy (cũng có mời đầu mục hoa đăng) đến trong nhà ca hát đọc một hồi, lấy
rượu thức nhắm kính dâng. Rượu lễ bái do làm theo lễ tế sùng bái cổ đại xa xưa
đối với tổ tiên chư thần. Trong ý thức truyền thống, cho rằng vạn vật đều có thần,
nếu như có việc quấy nhiễu thần không tế bái, thì sẽ không được thanh tịnh (một
số hiện tượng trong tế bái rượu, do thuộc về một loại cặn bả, ở trong dân chúng
đã dần dần mất hút).
Rượu lễ và tửu đức có liên quan mật thiết với nhau, rượu
lễ phải nổi bật một chữ “Kính”, còn thất lễ thì có chê thất đức. Người xưa đề
xướng “Khiết tổn túc khách” (sạch tiết kiệm cung kính khách), “Tam ấp” (ba lần
chấp tay vái chào), “Tam nhượng” (ba lần nhường), trong chỗ ngồi cần có thứ tự
già trẻ, không khó hài hòa. Dưới dâng rượu lên trên gọi là “thọ”, hướng về tôn
trưởng, người có đức đạt tới cùng vai lứa ngưỡng mộ kính rượu, và bày tỏ tôn
kính, lời hay ý đẹp, gọi là “Phụng thương thượng thọ”. Cho nên nói uống kính
nhường lễ nghi mới tính là có được tửu đức.
Tửu đức, chính là chổ đạo đức trong quá trình hình
thành hành vi rượu cần có, gọi là hợp tác chặt chẽ lẫn nhau trong bày tỏ. Cung
Nhược Đông tiên sinh cho rằng “nếu như
nói lễ là hạt nhân bên trong văn hóa tửu Trung Quốc, thế thì tửu đức chính là
võ ngoài của văn hóa tửu Trung Quốc”. Lời nói này rất có kiến giải. Cổ nhân
cho rằng, tửu đức có phân biệt dữ và lành. Chu Công “Thập Tam Kinh Chú Giải” chổ
phản đối là tửu đức của nát rượu, chổ đề xướng là tửu đức của “Vô Di Tửu” (“Thượng
Thư.Tửu Phụ”). Chổ gọi là “Vô Di Tửu”, chính là không nên uống rượu quá mức. Thế
thì như thế nào mới kể là không uống quá mức đây? Khổng Tử (nhà tư tưởng, nhà
chính trị, nhà giáo dục, người sáng lập của nho gia, đời Xuân Thu TQ 551 – 479
TCN – ND) được hậu thế tôn là “thánh nhân” nói: mỗi người uống bao nhiêu rượu chưa có định lượng và giới hạn tiêu chuẩn
nào cụ thể, lấy thần trí rõ ràng, hình thể vững vàng, khí huyết yên ổn, đều như
bình thường sau khi uống rượu làm mức hạn định. “Không bằng loạn” tức thì
trở thành tiêu chuẩn tửu đức của Khổng Tử Giám Vãng Cố, Sát Đương Thời, Thành
Lai Thế đề ra, thời Tần trước kia Hoàng môn thị lang Triệu Chỉnh Mục Đỗ Phù
Kiên cùng các đại thần Phù Kiên ngâm ở trong rượu đã viết ra một bài “Tửu Đức
Ca” khuyên răn, có thể làm cho lạc lối mà về, nhận được khuyên bảo can ngăn.
Tửu đức đối với tác dụng xây dựng văn minh lễ phép của
mọi người cũng không thể không coi trọng một cách như nhau. Cổ nhân Ngô Bân ở
trong “Tửu Chính” đề ra uống rượu phải cấm kỵ “xa xỉ hoang tưởng, liền đêm, cổ vũ hao tổn quá nhiều, tranh luận gay gắt,
phòng ngừa rượu, pha trò độc địa, phun bẩn, giả vờ say”.
Xưa nay y học từ góc độ bảo vệ sức khỏe cũng rất là đề
xướng tửu đức. Danh y Biểu Thước của thời kỳ chiến quốc, “Dược vương” Khổng Tư
Mạc Đường Triều, nhà đại y dược Lý Thời Trân Minh đại đều coi trọng tửu đức.
Hơn nữa, y học hiện đại cũng đã tổng kết không ít phương pháp uống rượu khoa học.
Tóm lại, chúng ta không đề xướng loại “Kính lão tôn
thượng” thuộc về cặn bã của xã hội phong kiến, nhưng lễ “Kính lão tôn thượng”
bình thường vẫn là cần thiết. Chặn đứng uống quá mức, đề xướng uống tiết kiệm,
văn minh, uống rượu khoa học, đây mới là chổ đức uống rượu của văn hóa tửu
Trung Quốc đề xướng.
Ngoài chổ này ra, tửu đức còn phản ảnh trên hành vi sản
xuất và kinh doanh có liên quan với nhau của rượu. Theo cách nói hiện tại mà
nói, chính là sản xuất rượu phải nghiêm khắc theo trình tự công nghệ và tiêu
chuẩn chất lượng mà làm, không thể làm ăn gian dối, theo thứ tự làm cho tốt; bán
rượu nhất định phải hàng thật đúng giá, không thiếu cân thiếu lượng. Cho nên
Trung Quốc có rất nhiều danh tửu truyền thống ngàn trăm năm nay vinh dự không
suy yếu, một nguyên nhân căn bản chính là trước sau duy trì tửu đức cao thượng
trọng chất lượng, trọng uy tín và danh dự.
Lịch sử rượu Trung Quốc dài như vậy, còn phong tục tôn
sùng rượu lại phổ biến như vậy, nhưng cái hại của nát rượu lại hoàn toàn không
quản rất nghiêm trọng, một điều này cùng nhà nước phương tây thường không giống
nhau. Trong đó một nguyên nhân rất quan trọng chính là: Trung Quốc từ Chu Đại
đã gắng sức đề xướng “Rượu Lễ” và “Tửu Đức”, và thiết lập có tửu quan, đem cấm
uống bừa bãi, pháp luật hóa ngăn chặn tai họa rượu, do vậy đã bảo đảm văn hóa tửu
Trung Quốc trước sau men theo phương hướng phát triển chính xác. Nguyên nhân thứ
hai chính là: “Cấm rượu” của các triều đại Trung Quốc chủ yếu là từ góc độ “tiết
kiệm lương thực” đề xuất ra, định vị điểm xuất phát của nó là rất chính xác.
Khi đó Đại Vũ “sơ Nghi Địch, tuyệt chi tửu”,
chính là mục đích ra từ thế này, dùng chổ này ngăn ngừa thiên hạ vì thiếu lương
thực mà tai họa thành bụi, nguy hiểm cho xã tắc. Từ giờ trở đi trên lịch sử có
qua rất nhiều lần cấm rượu thật sự qui mô lớn, như Tề Cảnh Công, Hán Văn Đế,
Hán Cảnh Đế, Tào Tháo, Lưu Bị, Triệu Vương Tây Tấn, Văn Thành Đế Bắc Ngụy, Võ
Thành Đế Bắc Tề, Võ Đế Bắc Chu, Tùy Văn Đế, Đường Túc Tông, Nguyên Thế Tổ, Mính
Thái Tổ, Thanh Thánh Tổ kiểu cấm rượu thời gian, tuyệt đối không chỉ chỉ bởi vì
kẽ nát rượu tạo thành vấn đề xã hội, mà chủ yếu là vì chuẩn bị chiến tranh tích
lũy lương thảo, hoặc là thiên tai nhân họa, “năm mất mùa cây lương thực quý”
làm cho như thế. Cho nên mỗi lần cấm rượu trên cơ bản đều có thể có lệnh thì phải
thi hành, thu được kết quả rõ rệt. Ngược lại, phong trào cấm rượu qui mô lớn của
xã hội phương tây chỉ là từ cố gắng cải thiện mâu thuẫn xã hội và góc độ bảo vệ
sức khỏe con người mà đề ra, cho nên nhiều lần cấm không dứt. Điều này nói rõ:
văn hóa tửu phương tây từ trên khái niệm mà nói cũng thiếu hụt nội hàm và đặc
trưng rộng lớn sâu sắc uyên bác của chổ có đủ của văn hóa tửu Trung Quốc.
Tóm lại, uống rượu là không phải đúng sai, chủ yếu lấy
lượng để định tính cách. Uống mức độ vừa phải là lịch sự; uống quá đầu rối loạn
tính cách thì vừa lãng phí rượu vừa làm hư thân thể. Cho nên uống có tiết tháo
là một nội dung chủ yếu của tửu đức, phàm người uống rượu cần tự coi trọng tự
quý trọng, dùng lý trí quản lý tốt bản thân, còn tăng lên đến cao độ trau dồi
nhân cách.
Tổng quan rượu lễ và tửu đức của văn hóa tửu Trung Quốc,
tất nhiên có rất nhiều vật nhất định phải vứt bỏ đi, như quan niệm đẳng cấp cao
thấp, nghi thức rượu văn vẻ rườm rà, và các loại sắc màu mê tín phong kiến muôn
màu muôn vẻ. Nhưng phân tích một cách khách quan, rượu lễ và tửu đức vẫn có rất
nhiều tinh hoa đáng được kế thừa và phát huy, như tôn kính cha anh thầy giáo,
hành vi phải đoan trang, uống rượu phải có hạn chế, nấu rượu, bán rượu phải nói
đến chất lượng, trọng danh dự v.v…như nhau đáng được chúng ta người thời nay lấy
làm gương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Rất cám ơn sự góp ý của bạn