Xung quanh tục lễ uống rượu của các dân tộc thiểu số
Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014
Trong xã hội nhân loại, bất cứ một loại ẩm thực nào đều
có thể chịu ảnh hưởng của kết cấu xã hội và đặc trưng văn hóa, từ đó mà hình
thành qui tắc ẩm thực và tập tục ăn uống. Ở trong thức ăn của số nhiều, ẩm của
tửu dùng qui tắc và tập tục dùng để uống lại là phức tạp nhất, có văn hóa đặc sắc
nhất, tục lệ uống rượu dân tộc thiểu số càng là mới lạ.
I/ Phương thức uống rượu độc đáo.
1- Dân tộc Khương.
Dân tộc Khương sống ở huyện Tự Trị Tộc Khương Mậu Văn
Tứ Xuyên Trung Quốc. Gặp phải khi có ngày vui hoặc lúc chiêu đãi khách, họ sẽ
khiêng ra một cái vò to, đặt để trên đất. Mọi người vây quanh ngồi ở xung quanh
vò, mỗi người tay cầm một ống trúc hoặc ống lau, xiên cắm vào trong vò, vừa cười
nói vừa từ trong vò hút nước rượu. Do ống dài đạt con số hết sức, vòng tròn mọi
người vây quanh ngồi tương đối lớn, cho nên 5, 6 người thậm chí 7, 8 người có
thể hút cùng lúc, khí thế rất nhiệt liệt. có lúc uống rượu một hồi, lại đứng dậy
múa điệu múa vòng tròn của người Tây Tạng, rồi lại tiếp tục uống rượu, loại uống
rượu này được gọi là ẩm táp tửu (饮咂酒), dân tộc Hmông
Quý Châu cũng thích ẩm táp tửu.
2- Dân tộc Di.
Con người dân tộc Di có tập tục uống “rượu xoay vòng” và
“rượu can cản”. Rượu xoay vòng chính là lúc uống rượu không phân biệt chổ địa
điểm cũng không phân biệt người lạ, người quen, chiếu đất mà ngồi, vây thành từng
vòng tròn, bê cốc rượu, theo thứ tự uống giáp vòng. Về lai lịch của rượu xoay
vòng, có một truyền thuyết thế này:
Trong một ngọn núi to có 3 chàng trai Hán, Tạng, Di cùng
cư trú, họ sống với nhau hòa thuận, kết nghĩa làm huynh đệ, dân tộc Hán là đại
ca, dân tộc Tạng làm nhị ca, dân tộc Di làm lão tam, mỗi năm ăn tết đều đoàn tụ
lại với nhau. Có một năm tam đệ dân tộc Di khai thác thu hoạch được rất nhiều hạt
kiều mạch, sau khi mài bột kiều mạch nấu được rất nhiều, mời 2 vị huynh trưởng
đến ăn cơm, ngày thứ nhất không ăn hết, ngày thứ hai bốc ra hương rượu nồng
mãnh liệt, sau khi múc vào bát, ba huynh đệ anh đẩy tôi nhường, ai cũng tiếc
không nỡ uống, từ sáng chuyền đến tối chưa có uống hết. Về sau có thần linh báo
cho biết, chỉ cần cần cù lao động, sau khi uống hết thì sẽ có cái mới. Thế là 3
người liền chuyền nhau uống, liên tục uống đến say mèm. Về sau cứ theo nếp cũ rồi
thành tục lệ, lưu truyền đến ngày nay.
Rượu can cản tức là mỗi năm gặp ngày lễ vui mừng, cô
gái, phụ nữ của gia đình dân tộc Di sẽ ôm một vò rượu, cắm lên ống trúc màu hoặc
ống lúa mạch, ở ven đường trước cửa nhà, khuyến khích người đi đường qua lại uống
mấy hớp mới để họ tiếp tục đi đường, người uống càng nhiều chủ nhân nhà này sẽ
càng vinh dự.
3- Dân tộc Choang.
Dân tộc Choang có một loại phương thức uống rượu đặc
thù gọi là “gõ chum”. Theo “Lĩnh Ngoại Đại Đáp” ghi chép: thôn trại dân tộc
Choang Khâm Châu Ung Châu, dùng vò nhỏ ủ rượu khô thành bả rượu nồng, cất giữ để
đấy. Khách đến, trước tiên ở trên đất trải một chiếc chiếu, đem vò nhỏ để ở giữa
chủ khách, bên cạnh để một vại nước sạch, sau khi mở vò, rót nước vào vò, cắm một
ống trúc, chủ khách luân phiên dùng ống trúc hút, tiên khách hậu chủ. Trong ống
trúc có một cái vặn mở giống như cá bạc nhỏ, có thể mở có thể đóng, hút quá vội
hoặc quá chậm, cá bạc nhỏ đều sẽ đóng kín. Loại phong tục này thì gọi là gõ
chum. Gò chum coi trọng lễ nghi, phải trước tiên do bà chủ trong nhà đến nói lời
chào đón, sau đó đem ống trúc đưa cho khách một cách trang trọng, nam nữ cùng uống
một vò, nước hết ống tăng thêm.
4- Dân tộc Bố Y.
Người dân tộc Bố Y thích uống rượu gạo, lúc uống rượu
có mấy cái đặc biệt thế này: một là dùng cái hũ đựng rượu, đem hồ lô (tiếng địa
phương gọi là Cách Đương) thò vào trong hũ rút ra; uống rượu không dùng ly rượu,
mà phần lớn dùng bát. Hai là đối với khi uống rượu phải đố rượu đoán nắm tay để
góp vui. Ba là phải hát ca khúc rượu, nội dung ca khúc rượu không vây quanh vấn
đề gì, như từ ngày khai thiên lập địa, sao ngày tháng, lịch sử dân tộc, thảo mộc
núi sông, anh hát một bài, tôi đáp một khúc, đáp không được phạt rượu. Hát
xong, kính mỗi một người khách uống một hớp rượu, mọi người giơ lên bát châm đầy
rượu gạo ca hát đáp tạ.
5- Dân tộc Cao Sơn.
Dân tộc Cao Sơn Đài Loan uống rượu coi trọng “tụ ẩm”
và “hội tửu”. Người dân tộc Cao Sơn rất ít người đóng cửa uống rượu một mình,
thường là tập hợp đám đông uống tràn cung mây, thâu đêm suốt sáng, không say
không nghĩ. “Trọng Tu Phụng Sơn Huyện Chí” nói: tụ ẩm lấy bát gổ đựng rượu,
quan địa phương rót trước, lần lượt đến phó quan địa phương, công thự, nhiều lần
lần lượt mà uống. Trong một năm, lúc nhà mới hoàn thành, bắt hươu quay về, nam
nữ kết hôn, ngày tết năm mới, đều phải tụ ẩm một lần. Lúc uống yến tiệc cần phải
có nhiều tửu lệnh, không trói buộc hạt nhân món ăn. Nam nữ ngồi lẫn lộn reo
vui. Đặc biệt người thân yêu nhau nhất, kề vai kề môi, lấy rượu từ trên trôi xuống
dưới, cả hai cùng uống vào miệng, nghiêng ngã chảy đầy đất, cho rằng là vui. Nếu
như người Hán xông vào, liền kéo cùng uống, không say không dừng (Xem ở “Phiên
Xã Thái Phong Đồ Khảo”). Sau khi uống say, lại nhất tề đứng dậy múa hát, hết sức
là vui vẻ. Huang Shu Jing “Phiên Tục Lục Khảo” viết: “uống rượu không say, say rồi thì nổi lên vừa ca vừa múa, múa không mềm
mại uyển chuyển bị thay thế, hoặc thiếu áo, hoặc phanh ngực quay lưng, múa đi
lòng vòng, giống như trang phục tuồng; hát ca khúc không bình thường, thấy ở cảnh
ra vẻ kéo dài giọng, một người hát, đám đông vỗ tay mà biết”. Dân tộc Cao
Sơn hình thành loại phương thức tụ ẩm này cũng cùng trên lịch sử Cao Sơn trường
kỳ có liên quan ở chổ tình trạng giai đoạn chế độ xã hội công hữu nguyên thủy.
6- Dân tộc Tạng.
Khi đến gia đình dân tộc Tạng làm khách uống Thanh Khỏa
Tửu, chú ý “Ba hớp một ly”. Tức là sau khi khách đón lấy ly rượu (bát), trước
tiên uống một hớp, chủ nhân châm đầy, lại uống một hớp, chủ nhân lại châm đầy,
lúc uống hớp thứ ba cần cạn ly. Nếu khách quả thật không thể uống rượu, thì có
thể theo tập quán dân tộc Tạng lấy ngón tay vô danh (ngón tay đeo nhẫn) bàn tay
phải nhúng rượu hướng về phía trên bên phải búng rượu ba lần, bày tỏ kính thần
linh thiên địa, cha mẹ người bề trên, huynh đệ bạn hữu, chủ nhân không còn cố
ép nữa. Thông thường ở sau “ba hớp một ly”, khách tức thì có thể uống tùy ý. Đợi
lúc khách đứng dậy cáo từ, phải cạn một ly sau cùng, là cách phù hợp lễ tiết.
Phương thức uống rượu có liên quan dân tộc thiểu số dưới
đây còn có 2 loại tương đối thường gặp, cũng rất thú vị.
- Rượu lò sưởi.
Rượu lò sưởi, tức là ở bên lò sưởi uống rượu và qui
trình liên quan với nhau của nó.
Lò sưởi là bộ phận tổ hợp thành quan trọng của cuộc sống
dân tộc thiểu số. Bên lò sưởi, bày ra quá trình sự sống sinh nở ma chay cưới hỏi;
bên lò sưởi đang diễn dịch buồn, vui, xa, hợp của nhân gian; bên lò sưởi đang
ghi lại mừng, giận, buồn, vui của gia đình. Ở trong tiến trình lịch sử xã hội
dài dằng dặc, lò sưởi có cùng liên hệ mật thiết bên trong hình thành văn hóa
dân tộc, cuộc sống xã hội của dân tộc thiểu số, đã thai nghén ra văn hóa lò sưởi
độc đáo. Ở vùng dân tộc thiểu số, ở nhà uống rượu gần như đều rời không khỏi lò
sưởi, văn hóa lò sưởi và văn hóa tửu ở trong văn hóa dân tộc thiểu số là 2 loại
phần tử văn hóa quan trọng cộng sinh bầu bạn lẫn nhau, biểu hiện rõ ràng đặc sắc
văn hóa địa phương nồng nàn và màu sắc văn hóa dân tộc mê người.
Lò sưởi phần lớn thiết kế ở trong gian giữa nhà chính.
Gian giữa nhà chính là nơi tiếp khách, thờ cúng. Mặt đối diện vách tường sau cửa
của phía trước để bàn thờ, trên bàn thờ phụng dưỡng tổ tông thần chủ, bài vị
v.v…vị trí lò sưởi ở phía trước giữa bàn thờ hoặc hai bên cửa nhà. Ở bên lò sưởi
uống rượu nói lảm nhảm, cũng chính là có thú vị đang ở trước liệt tổ liệt tông
uống rượu. So sánh xu hướng chủ yếu văn hóa tửu văn hóa dân tộc thiểu số cùng
hào khí muôn trùng hoặc hoạt bát vui vẻ khoan khoái, rượu lò sưởi ở trên toàn bộ
lễ nghi uống rượu tỏ ra trang trọng cẩn thận chặt chẽ rất nhiều, biểu hiện ra
toàn thể thành phần lý tính không khí đoàn kết hữu nghị càng nhiều.
Cẩn thận chặt chẽ và nghiêm túc của rượu lò sưởi đầu
tiên biểu hiện ở sắp xếp thứ tự chổ ngồi của người uống rượu. Ở trong xã hội
dân tộc Di truyền thống, “phía trên” lò sưởi chổ vị trí quay lưng vào tường mặt
hướng về cửa, vị trí này cách bàn thờ gần nhất, là chổ chuyên ngồi của người
đàn ông trưởng trong gia đình; Người MoSo dân tộc Nạp Tây thì vừa vặn ngược lại,
phía trên lò sưởi là chổ ngồi đương nhiên của phụ nữ lo liệu việc nhà. Xếp thứ
tự chổ ngồi uống rượu lò sưởi. trên bề ngoài là một loại tập tục sinh hoạt, tầng
sâu của nó nói rõ là quan hệ giữa người, kết cấu xã hội, quan niệm đạo đức luân
lý của các dân tộc, cũng phản ảnh ra khác biệt văn hóa xã hội giữa các dân tộc.
Cẩn thận chặt chẽ và nghiêm túc của rượu lò sưởi còn
biểu hiện ở trên lễ tiết uống rượu. Ở trong dân tộc xác lập chế độ vững chắc phụ
quyền, ở nhà ngồi xung quanh lò sưởi uống rượu, người châm rượu thông thường là
con trưởng của gia đình, ly rượu thứ nhất phải kính cho người đàn ông lớn, thứ
đến là người nữ trưởng, người ngang hàng theo tuổi tác già trẻ thứ tự châm rượu.
Nếu như có khách đến nhà, lần thứ nhất châm rượu phải do người đàn ông trưởng
đích thân cầm bình, sau khi châm rượu cho khách, lại chuyển giao bình rượu cho
con trưởng, theo thứ tự lần lượt của nó châm rượu. Khi uống rượu, phải trước
tiên sau khi kính khách hoặc trưởng bối mới có thể uống. Rượu lò sưởi coi trọng
bầu không khí ấm hương êm thấm, trước tiên giơ ly, mắt nhìn tôn trưởng, lại
nhìn quanh mọi người, nói một tiếng: “nào, uống!” tức là ý kính, cũng là mời,
lúc uống cụng ly mà không cạn, uống nhiều uống ít, tùy ý mà định.
Cẩn thận chặt chẽ và nghiêm túc của rượu lò sưởi cỏ biểu
hiện ở trên hành vi ngôn ngữ của lúc uống rượu. Uống rượu bên lò sưởi, tổ tông ở
nhà, già trẻ ngồi vòng quanh, cho nên không được có hành vi nói tục nói bẩn,
không được tùy ý ồn ào náo nhiệt. Chủ đề cuộc nói chuyện phần lớn do khách hoặc
người trưởng đề ra, vãn bối hậu sinh nhất là phụ nữ không thể tùy ý xen vào nói
leo. Nội dung thảo luận, từ xếp việc nhà nông đến tổng kết đời sống, không bao
gồm vấn đề gì. Sắp hết ý rượu, người già bắt đầu dùng ngôn ngữ gốc dân tộc hát
câu ca dao cổ xưa, hướng về hậu bối kể lại nổi dằn dặt gian khổ những việc từng
trãi qua của nguồn gốc dân tộc, và phức tạp gian khổ của các tổ tiên tạo nghiệp,
ca ngợi nhân vật anh hùng của nguồn gốc dân tộc, truyền bá truyền thống tốt đẹp
của văn hóa dân tộc. Lúc này, trong hủ rượu, bên lò sưởi ấm áp, đang chảy lại lịch
sử của một dân tộc cổ xưa, trong bát rượu đang bao hàm một truyền thống văn hóa
của một dân tộc, trong ánh sáng chuyển động sóng của rượu ngon đang lóe lên ấm
hương thơm và hạnh phúc của một gia đình.
Uống rượu lò sưởi, trong dân tộc đang có, là một loại
bản lĩnh quan trọng của đám đông đoàn kết, đọng lại lòng người. Rượu lò sưởi của
dân tộc Lật Túc, dân tộc Nô (Vân Nam TQ-ND), dân tộc Độc Long, ngoài nghiêm cấm
ở bên lò sưởi nói lời nhơ bẩn ra, giới hạn tương đối ít chịu nghi lễ rườm rà
phiền toái, phần lớn là theo đuổi một bầu không khí sinh hoạt rộng rãi tiện
nghi khoan khoái dễ chịu, nồng nhiệt vui vẻ khoan khoái.
- Táp tửu.
Táp tửu xưa gọi là “gõ chum”. Nó không phải là rượu, mà
là một loại tập tục uống rượu, cũng chính là nhờ vào ống trúc, ống mây, cán lau
sậy các loại vật dạng hình ống đem rượu từ trong đồ đựng hút vào trong ly, bát
để uống hoặc trực tiếp hút vào trong miệng. Do chọn dùng ống hút không cùng
nhau, táp tửu lại gọi là rượu ống trúc, rượu ống mây v.v….nó lưu hành trong dân
tộc Di, Bạch, Lật túc, Phổ Mễ, Wa, Hà Nhì, Nạp Tây, Thái (TQ), Choang, Đồng
v.v…ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây v.v… Rượu lấy cách táp tửu để uống
đều là rượu nước. Táp tửu có chia ra lãnh táp và nhiệt táp. Táp tửu là bê ra vò
rượu, đem ống hút cắm vào đáy vò hút uống; Nhiệt táp tửu là đem rượu nước để ở
trong nồi nung nóng hoặc là trực tiếp đem vò rượu bắc ở trên lửa, vừa nung nóng
vừa uống. Táp tửu là một cắm đến đáy, vừa uống, vừa thêm nước đun sôi để nguội,
làm cho nước rượu trong vò hoặc trong nồi duy trì ở mực nước thông nhau, mãi đến
mùi vị rượu toàn bộ đều mất đi.
Loại phương pháp uống rượu này, ở trong các dân tộc
Tây Nam từng thịnh hành thời kỳ dài, là lễ tiết cao nhất đãi khách. Minh Đại
nhà du lịch Từ Hà Khách du lịch Điền (Điền biệt hiệu Vân Nam- ND), lúc ăn cơm tối
nhà dân thôn Thiết Giáp Tường bờ ErHai, loại phương thức uống rượu đặc sắc độc
đáo này làm cho Từ Hà Khách mở rộng tầm mắt.
Ngày tết đêm lương thực tốt, ở trên chổ đập rộng rãi bố
trí thùng hoặc hộp lớn đựng đầy rượu nước, ở giữa cắm cây ống trúc khô, mọi người
đang vòng quanh vò rượu múa hát nhẹ nhàng, khát rồi, đến gần vò rượu nhằm vào ống
trúc uống một hớp, làm trong cổ họng lại hát; Mệt rồi, đến gần thùng rượu hút một
hơi, phấn chấn tinh thần lại múa. Bầu không khí rất là vui tươi nồng nhiệt.
Khách quý đến nơi thì hoan nghênh gia nhập vào ca múa, một điệu múa xong, đám
đông quây quần khách đến trước vò rượu, người chủ trì cầm ống trúc mời lẫn
nhau, khách cắm ống, đám đông mới cắm ống vào vò, cùng uống cùng vui.
Cách táp tửu lấy các loại trúc, mây, lau sậy trực tiếp
hút uống, thiếu bảo đảm vệ sinh, có cản trở sức khỏe. Một số dân tộc đã dần dần
gác sang một bên không dùng, còn có dân tộc đến ngày nay vẫn đang bảo lưu một
cách hoàn chỉnh phương pháp uống rượu này, có nơi còn chọn phương thức chiết
trung, đem rượu “táp”(hút) ra đựng vào trong ly, bát rồi lại dùng để uống. Như
kiểu đám đông dân tộc Phổ Mễ, dân tộc Đồng thì là dùng ống trúc đem rượu hút
ra, đựng ở hồ lô, trong bát, lại phân phối để uống.
II/ Tục rượu đãi khách.
Nhiệt tình hiếu khách là phong tục thịnh hành phổ biến
của các dân tộc thiểu số Trung quốc, rượu phổ biến được rất nhiều dân tộc xem
là vật quý báu thiêng liêng, rất nhiều dân tộc thích lấy rượu thết khách, để biểu
đạt tâm ý bản thân chân thành.
1- Dân tộc Mông Cổ.
Dân tộc Mông Cổ đối với khách đến thăm, bất luận lạ,
quen đều lấy rượu đãi lẫn nhau một cách nhiệt tình. Đầu tiên là lập tức châm
lên rượu sữa, kế đến còn phải cử hành tiệc rượu khoản đãi. Trong tiệc rượu, vợ
của chủ nhân “ngồi cùng bàn”, để bày tỏ tiếp đãi long trọng đối với khách, lại
nói rõ không xem khách là người ngoài. Giữa bữa tiệc, nếu như trong ly khách
còn lưu lại chút giọt rượu, chủ nhân là không vui, nếu như khách uống hết rượu
trong ly, chủ nhân mới vui. Lúc uống rượu, chủ khách thường đổi thưởng thức rượu
trong ly, muốn khách mếm thử một hớp, chủ nhân chỉ cần dùng một tay giơ ly; nếu
như chủ nhân hai tay giơ ly, thì biểu hiện chủ khách bắt buộc đổi cho nhau ly
rượu, khách bắt buộc uống hết chổ rượu trong ly của chủ nhân tặng, không uống hết,
thì không vui, cũng không rót rượu nữa. Còn một khi nhìn thấy đến khách trong
lúc say rượu ồn ào thất lễ, hoặc nôn mữa hoặc nằm, chủ nhân mới đặc biệt vui,
còn nói: khách say thì cũng giống như lòng tôi! (Tống Mạnh Kung “Mông Đát Bi Lục”). Gặp khách quý đến nhà, người
dân tộc Mông Cổ có một loại lễ tiết tên gọi là Đức Cát Lạp. Quá trình là: chủ
nhân cầm một bình rượu, miệng bình có phết bơ, trước tiên đi qua chổ chủ ngồi
khách dùng ngón tay trỏ bàn tay phải nhúng một chút bơ trên miệng bình xoa xoa ở
trên trán, sau đó lần lượt giáp vòng phết, đợi sau khi mỗi người khách phết
qua, chủ nhân mới cầm ly rót rượu kính khách.
2- Dân tộc Tạng.
Khi khách đến thăm nhà, trước tiên phải kính lên một
bát Thanh Khỏa Tửu, bày tỏ lòng hiếu khách của chủ nhân nồng nhiệt như sức rượu,
tình bạn như mùi vị nồng nàn dài lâu. Có lúc cũng lấy phương thức uống táp tửu
chiêu đãi khách. Cách uống của nó là, trước tiên nấu sôi một nồi nước to, để ở
bên lò sưởi đang ấm, sau đó đem một vò Thanh Khỏa Tửu ủ đã lâu cắm vào 2 cây hoặc
nhiều cây ống trúc, để ở trên chổ khách bên lò sưởi. Sau khi khách đến đủ, chủ
nhân trước tiên mời người khách lớn tuổi nhất ngồi ở bên vò rượu, thông thường
sau khi trãi qua còn lấy ngón tay vẫy rượu về bốn phía, tức là bắt đầu uống.
Lúc uống mời một vị khách hoặc nhiều vị khách lớn tuổi cùng ngồi đối diện người
lớn tuổi trước đó, mỗi người hút một ống trúc, rượu vòng thứ nhất uống xong, lại
lấy theo thứ tự lớn trước nhỏ sau đổi làm một vòng khác. Người dân tộc Thái Vân
Nam khi mời khách uống rượu, khách quý bắt buộc ngồi ở chổ trên. Trước khi uống
rượu, phải mời khách trước tiên ăn chút cơm, để tránh khách bụng không uống rượu
chưa thoải mái đã say ngã. Lúc chủ nhân hướng về khách kính rượu, một người hô
lớn một tiếng, mọi người hòa theo, như thể 3 người (Minh Tiền Cổ Huấn . Lý Tư
Thông “Bách Di Truyền”), người Thổ Tư Đầu (土司头)
mời yến tiệc khách quan trọng, phong tục theo lệ do người con gái trẻ tuổi
trong trại kính rượu, họ dùng mâm bạc đỡ bình rượu, theo thứ tự hướng về khách
kính rượu. Nếu như người nào kính mà không uống, họ sẽ ôm đầu người đó mà rót
rượu. Nếu như muốn họ nhẹ tay cho, thì bắt buộc chuẩn bị trước đồng bạc trắng,
lúc đến kính rượu, để lên một đồng bạc, mời người ấy uống thế. Người A Wa lúc
khách đến thăm nhà, sẽ cảm thấy đến vinh hạnh đặc biệt, cho rằng bạn đến, đem đến
thịnh vượng và vận may. Vì thế bê ra vò rượu, để làm lễ đãi đón khách. Đầu
tiên, lúc chủ nhân kính rượu, trước tiên phải tự mình uống một hớp, để xoa tan ý
cảnh giác của khách, sau đó lần lượt theo thứ tự cho khách uống. Còn khách nhất
định phải đem chổ rượu kính uống cạn, không thì chủ nhân sẽ cho rằng khách xem
thường ông ta. Khách sắp rời đi, chủ nhân lại phải lấy lễ tiễn thân thiết hướng
về khách kính rượu, chủ nhân dùng hồ lô đựng đầy rượu nước sau khi uống qua một
hớp, hai tay bưng đến bên miệng khách, mãi đến đối phương uống hết, chủ nhân mới
nghĩ tay. Ý nghĩa của cách làm thế này là, sau khi khách đi rồi, cho dù đi đến
đâu cũng không nên quên bạn bè.
3- Dân tộc Lê.
Dân tộc Lê đem khách đường xa mà đến đều làm thượng
khách, nếu như là khách nam, rượu trước cơm sau; nếu như là khách nữ, thì cơm
trước rượu sau. Uống rượu tiến hành chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là
rượu kính qua lại lẫn nhau, giao lưu cảm tình thuộc về thông thường; giai đoạn
thứ hai là hả hê nâng chén; giai đoạn thứ ba là chủ khách hát đối uống rượu, cảm
tình hòa hợp. Lúc chủ nhân hướng về khách kính rượu, trước tiên hai tay bê lên
bát rượu hướng về mọi người chào, còn uống một hơi mà cạn, đem bát rượu không
cho mọi người xem, để bày tỏ thành ý của mình, tiếp theo hướng về khách kính rượu,
sau khi khách cạn ly, chủ nhân lập tức gấp một miếng thịt đưa đến trong miệng
khách, khách không nên cự tuyệt, chỉ có thể cười hưởng thụ mới hợp lễ số.
4- Dân tộc Cảnh Phả.
Dân tộc Cảnh Phả (tộc người thiểu số ở Vân Nam TQ-ND)
rất coi trọng lễ tiết uống rượu, kính rượu lẫn nhau, không phải đón lấy rượu
thì uống, mà là trước tiên đổ về cho trong ống rượu của đối phương một chút mới
uống, làm thế này bày tỏ tôn trọng lẫn nhau.Mấy người cùng đến nhà người Cảnh
Phả làm khách, chủ nhân thông thường không kính rượu cho từng người khách, mà
là đem ống rượu giao cho người trưởng trung niên, bày tỏ đem lòng giao cho anh
ta, để anh ta đại diện tấm lòng của chủ nhân kính rượu cho mọi người. Người
kính rượu phải căn cứ số lượng của rượu và số người chia đều rượu. Bao gồm chủ
nhân ở trong đó, sau đó mới có thể tự mình uống, sau cùng trong ống rượu còn phải
lưu lại chút rượu, biểu thị rượu trong ống rượu mãi mãi uống không hết. Lúc mọi
người cùng uống một ly rượu, mỗi người uống qua, đều dùng ngón tay lau một chút
nơi mình đã uống lại chuyền cho người khác, làm thế này là lễ tiết tập quán của
dân tộc Cảnh Phả.
5- Dân tộc Tráng.
Phong tục của dân tộc Tráng kính rượu khách là uống rượu
giao bôi. Rượu giao bôi hoàn toàn không dùng ly, mà là dùng muỗn canh sứ trắng,
hai người từ trong bát rượu mỗi người múc một muỗng, uống đan chéo lẫn nhau,
sau đó dùng ánh mắt tràn đầy tấm lòng tôn kính đối lập nhau mà nhìn, chủ nhân bấy
giờ sẽ hát lên bài ca kính rượu: bình thiếc
đựng rượu liên tục trắng, rượu đến trước mặt bạn không chê. Tôi có tấm lòng
kính khách quý, kính bạn ví như kính thần tiên, bình thiếc đựng rượu ly trắng sứ,
rượu đến trước mặt bạn không từ, rượu dù rằng không ủ tình người tốt, bạn là thần
tiên uống nữa ly. Bài ca kính rượu bùi tai so với rượu ngon trong ly vẫn
còn say người.
6- Dân tộc Bố Y.
Dân tộc Bố Y coi trọng chủ khách hát đối bài hát rượu.
Chủ nhân hát lời khiêm nhường, khách hát ý đáp tạ, một người hát một bài, hát
xong mọi người mỗi người uống một hớp rượu, nếu như người nào không biết hát,
thì phạt uống 3 hớp. Rượu đón khách của dân tộc Bố Y cũng có nhiều dí dỏm. Người
khách đến thăm nhà, chủ nhà ở cửa cổng bày cái bàn, để lên bình rượu và bát,
trong bát rót rượu, hai tay bê lên, hát lên “Bài hát nghênh tiếp khách”. Khách
nếu như là người có thể hát, thì lấy bài hát làm đáp tạ. Như thế người đối đáp
mấy hiệp không phân thắng bại, khách sẽ phải uống một hớp. Vào đến trong nhà, nếu
như khách không biết hát, chủ nhân hát một bài, khách uống một hớp, mãi uống đến
7, 8 hớp mới thôi. Sau khi vào nhà, chủ nhà yêu cầu mời người con gái giỏi về
ca hát hướng về khách vừa kính rượu, vừa hát “Bài hát kính rượu”. Nếu như khách
có thể hát, thì phải lấy bài hát hát đối, nếu như không biết hát bài hát rượu,
người con gái hát một bài, thì bị phạt uống một hớp.
7- Dân tộc Wạ.
Dân tộc Wạ Vân Nam có tập tục lấy rượu ngâm đãi khách.
Rượu ngâm là một loại rượu dùng cơm tẻ đỏ nhỏ thêm men rượu sau khi lên men ủ
thành. Vị ngọt, số độ thấp, già trẻ nam nữ đều thích uống. Khách đến thăm nhà,
đồng bào dân tộc Wạ trước tiên vẫn là dùng rượu ngâm chiêu đãi. Chủ nhân từ
trong cái bồ trúc đem cơm tẻ đỏ nhỏ đã lên men đổ vào trong ống trúc dài khoảng
60cm, đường kính 10cm, sau đó rót vào nước suối núi, lại dùng một ống trúc nhỏ
cắm vào phần đáy ống trúc. Lợi dụng cách xiphông đem rượu nước từ đáy ống hút
ra, đựng vào trong ly trúc. Lúc dùng để uống, chủ nhân trước tiên uống một hớp,
dùng bàn tay phải lau lau miệng ly trúc, lại hai tay giao cho khách, biểu thị
rượu không có độc, xin yên tâm uống. Bấy giờ khách phải đưa bàn tay phải, lòng
bàn tay hướng lên đi đón ly rượu, để bày tỏ lòng biết ơn. Khách sau khi uống một
hớp, cũng lau miệng ly một cái trả cho người khác uống, một người một hớp chuyền
nhau uống, không được uống một mình. Bất luận người đông người ít đều là dùng một
chiếc ly lần lượt dùng để uống, vừa uống vừa nói chuyện, vừa hướng về trong ống
trúc rót nước suối. Khách ở trên bàn tiệc phải chú ý không nên dùng tay sờ đầu
và cái tai, vì đây là biểu hiện xin tình yêu.
III/ Tục rượu hôn nhân.
Hôn nhân là việc đại hỉ của nhân sinh, việc đại hỉ bắt
buộc phải đi kèm lấy rượu ngon nấu hay, đây là tập tục của rất nhiều dân tộc
Trung Quốc đều có. Rất nhiều dân tộc, từ yêu nhau, đính hôn, kết hôn, về nhà mẹ
và sinh con trai thêm con gái, đều phải lấy rượu gọi là chúc mừng, không rượu
không thành lễ nghĩa, không rượu khó kết duyên phận.
1- Dân tộc Khương.
Cư trú ở Châu A Bá Tứ Xuyên tập tục của đồng bào dân tộc
Khương là: phía nam mời ông đỏ (người làm mối) đi đến nhà gái làm mai, nếu như
nhà gái đồng ý, thì hướng về nhà trai đề ra cần làm bao nhiêu bàn rượu, phí tổn
do nhà trai gánh vác, biểu thị bước đầu đính hôn thành công, đây gọi là uống rượu
mở miệng.
Đính hôn dân tộc La Hụ Vân Nam phải cữ hành nghi thức
đính hôn rượu lồng sưởi. Tức lúc phía nhà trai đi đến phía nhà gái cầu thân, mời
một người làm mối đi cùng, mang theo một cây thuốc lá buột chặt, một bình rượu
gạo khoảng 3 kg. Sau khi đến nhà gái, cha mẹ nhà gái mời họ hàng đến ngồi xung
quanh lò sưởi. Bấy giờ người làm mối nói rõ ý đến, còn đem cây thuốc lá giao
cho người già, nếu cha mẹ đồng ý việc hôn nhân nhà này, hai tay đón lấy cây thuốc
lá, còn gọi con gái đem bát ra. Nếu như người con gái cũng đồng ý, thì đem bát
đến trước mặt mỗi người để một cái, người làm mối sẽ đem cây thuốc lá chia cho
mọi người, rót cho mỗi người bát rượu gạo, mọi người vừa uống rượu vừa nói chuyện
phiếm. Nếu như phía nhà gái không đồng ý việc hôn nhân nhà này, tức không thể
nhận cây thuốc lá, cũng không thể cầm bát rót rượu.
2- Dân tộc Nạp Tây.
Dân tộc Nạp Tây Lệ Giang Vân Nam, trong quá trình đính
thân, rất có ý nghĩa lấy rượu liên kết hôn nhân. Đính thân, tiếng Nạp Tây gọi
là rí báng, ý nghĩa là tặng rượu. Khi con trai lớn 5, 6 tuổi, cha mẹ liền đến
trong đền miếu thắp hương xin quẻ xếp tám chữ, tìm con dâu cho nó. Sau khi xem
mặt được người con gái, cha mẹ liền nhờ người làm mối mang một bình rượu cho
nhà gái để làm mai cho con trai, nếu như cha mẹ phía người con gái đồng ý, đợi
người con gái khoảng 10 tuổi bắt đầu chọn ngày cữ hành lễ đính hôn. Lúc đính
hôn, nhà trai cần phải hướng về phía nhà gái tặng rượu một vò và gạo trắng, đường
đỏ, trà v.v…., trong đó đường, trà, rượu là lễ vật không được thiếu, gọi là tiểu
tửu. Sau tiểu tửu, bất cứ một bên nào cảm thấy không thích hợp, đều có thể hủy
bỏ đính hôn. Lúc thoái hôn, phía nữ cần đem đủ số chổ lễ vật nhận trả lại nhà
trai. Nếu như nhà trai hối hận quy ước, báo cho nhà gái là được. Sau tiểu tửu
cách một năm rưỡi trở lại, nhà trai lại phải tặng lễ lần thứ hai cho nhà gái, gọi
là qua đại tửu, cũng gọi là tiểu quá môn hoặc xin con dâu. Ngoài chuẩn bị lễ vật
cho qua tiểu tửu, còn phải biếu tặng vải dệt thủ công một xấp, quần áo 2 chiếc.
vòng tay một đôi, thịt heo 30 cân và hiện kim v.v…., cờ màu quàng lụa, do người
làm mối và bạn thân nhà trai đem lễ ăn hỏi đưa đến nhà gái. Nhà gái lấy tiệc rượu
chiêu đãi lẫn nhau, khách phải ca ngợi rượu của nhà trai tặng ngon, hướng về
hai nhà kết thân chúc mừng. Phía nữ phải tặng một bình rượu và hai hộp đường đỏ
làm đáp lễ. Ngày thứ hai sau tặng đại tửu, nhà trai phải đem rượu cưới, kẹo cưới
đáp lễ của nhà gái cúng tế tổ tiên, cầu xin được đồng ý, còn chí thân do nhà
trai đi nhà gái họp thân, từ đây hai gia đình bắt đầu thăm hỏi lẫn nhau để thông
gia tiếp đãi lẫn nhau, đính thân nam nữ cần phải xem như là vợ chồng.
3- Dân tộc Triều Tiên.
Dân tộc Triều Tiên đính hôn, đem rượu xem trọng như tiền
bạc. Lúc dân tộc Hách Triết (ở tỉnh Hà Bắc Long Giang TQ-ND) cầu hôn, do phía
nhà trai mời bạn thân trưởng bối, mang theo hai chai rượu nút chai có vải đỏ và
cá chép, đến nhà gái cầu hôn, sau khi được nhà gái đồng ý, ngày hôm sau, chàng
rễ phải đến bái kiến cha mẹ vợ tương lai, kính rượu, dập đầu lạy, tặng cho nhạc
phụ ngựa và da chồn, còn phải tặng lên một vò rượu, một con heo dùng làm lúc gã
con gái chiêu đãi bạn thân. Quá trình đính hôn dân tộc ÊvenKi (một tộc người
thiểu số ở Nội Mông Hắc Long Giang TQ-ND) là trước tiên do người làm mối mang một
bình rượu đến phía nhà gái, giải thích rõ ý đến, sau đó đem rượu ra kính cho phụ
thân phía nhà gái. Phụ thân phía nhà gái uống rượu, việc hôn nhân xem như là đã
thành, ngược lại thì chưa có định thành. Tình hình thường có là, cha mẹ phía
nhà gái giả vờ không uống rượu, khích người làm mối hao phí nhiều lời nói, đem
phẩm chất đạo đức, tướng mạo v.v….của phía nhà trai nói rõ một hồi, sau khi cảm
thấy vừa ý lúc này mới uống. Lúc uống rượu còn phải đem người trong gia đình
nhà gái mời đến tham gia.
Dân tộc Ơ Luân Xuân (một tộc người thiểu số ở Hắc Long
Giang Nội Mông TQ-ND) cũng giống như dân tộc Êvenki lúc cầu hôn, giống nhau do
phía nam mời người làm mối đến nhà gái vừa uống rượu mà đề thân. Sau đó phía
nam nhờ người làm mối tặng 2 bình rượu sính lễ cho nhà gái. Nếu như đính hôn
thành công, lúc nhận thân và qua lễ ăn hỏi, phía nam bắt buộc mang rượu, heo rừng
tặng cho nhà gái làm lễ vật ăn hỏi. Theo đây có thể thấy, trong đại đa số dân tộc
thiểu số, rượu là môi giới liên lạc cảm tình, là biểu tượng cao quý long trọng.
4- Dân tộc Ơ Luân Xuân.
Người dân tộc Ơ Luân Xuân, lúc nhạc phụ tham gia xong
hôn lễ trở về nhà, đi đến cửa nhà, tân lang cần phải kính rượu tiễn nhau, khi
nhạc phụ lên ngựa, tân lang cũng phải kính rượu tiễn nhau. Người đưa thân phía
nhà gái, có thể cất giấu ly rượu mà đi, còn người kính rượu phía nhà trai, cần
đuổi theo ly rượu giành lại. Trên hôn lễ dân tộc Ordos Tây Bắc Mông Cổ, tân
lang phải cầm bình rượu, tân nương tay bê cái mâm để một đôi ly bạc, cùng hướng
về các khách kính rượu, khách thì bắt buộc uống hết chổ rượu kính, còn phải nói
một số lời chúc mừng ca ngợi. Tân lang, tân nương của dân tộc Xipô, sau khi hướng
về trưởng bối, khách khứa kính rượu, còn phải kính lẫn nhau, để bày tỏ cảm tình
hòa hợp.
5- Dân tộc Đồng.
Hôn lễ dân tộc Đồng Quý Châu thông thường bố trí tiệc
rượu 3 ngày, đồng thời tên gọi mỗi cái khác nhau. Ngày thứ hai là tiệc rượu
chính. Trong lúc uống rượu coi trọng tửu lệnh và từ lễ. Rượu uống say quá nữa,
khách chủ phải tiến hành lễ tiết cưỡi ngựa diễu hành, chia thóc chuyền nhau thưởng
thức. Do một người giữ chức quan chia thóc, tay nâng mâm trà, bên trong để một
bát thịt đậy, rượu 4 chung, một người khác cầm bình rượu làm trợ thủ, thành cặp
tiến đến chia thóc thực hiện kính khách lớn (khách đưa thân), hai bên ở một chổ
trong lời lẽ chiến tranh anh truy hỏi tôi chất vấn kính rượu cùng quay vòng ban
thưởng, đặc biệt tưng bừng kịch liệt.
6- Dân tộc Thổ Gia.
Trên hôn lễ dân tộc Thổ Gia Tương Tây Hồ Nam có tập tục
“uống thượng mã tửu”. Trong hôn thú nhà gái họ hàng huynh đệ trên đường hộ tống
tân nương sau khi đến nhà trai, nhà trai cần phải ở trong nhà chính bày tiệc rượu
chiêu đãi. Họ hàng huynh đệ giữ chức cữu lão gia ngồi ở chính giữa dưới bàn thờ
tổ tiên bố trí đặc biệt, tục gọi ngồi thượng mã vị, khách đi cùng ngồi ở vị trí
bên trái bên phải. Trên bàn rượu và thức ăn cần phải theo quy tắc nghi thức bày
thành hình móng ngựa, nếu như xếp sai vị trí, cữu lão gia mượn cớ không uống,
hoặc chỉ uống hai ly đầu cuối, thế thì tiệc rượu của người khách khác nhất loạt
mở uống không thành.
7- Dân tộc Độc Long.
Dân tộc Độc Long Vân Nam buổi tối cử hành nghi thức kết
hôn, trước tiên do cha mẹ hai bên dạy dỗ cô dâu chú rễ sau hôn lễ phải quan tâm
lẫn nhau, hòa thuận sống với nhau, sau đó cha mẹ hai bên tặng cho cô dâu chú rễ
một bát rượu gạo, tân lang tân nương đồng thời hai tay đón lấy, ở trước mặt mọi
người hướng về cha mẹ bày tỏ mong đợi nghe giáo huấn từ người lớn, mãi mãi
không tách rời. Tiếp theo bê bát rượu lên, cùng uống mà hết, đây gọi là uống rượu
đồng lòng.
8- Dân tộc Dao.
Trên hôn lễ dân tộc Dao Quảng Tây có tập tục uống liên
tâm tửu. Buổi tối hôn lễ, nhà trai vui vẻ thết tiệc khách khứa, trong đó bàn đầu
dùng 5 cái bàn liên kết thành một bàn tiệc, do tân lang, tân nương, người làm mối,
cha mẹ hai bên v.v… ngồi. Tân lang tân nương sau khi rót đầy rượu cho mỗi vị
khách, lại đem rượu rót trở về trong bình rượu trộn lẫn lại, lại rót vào trong
ly của mỗi người. Sau đó, tân lang tân nương hướng về mỗi vị trưởng bối, bạn thân
trong bàn tiệc kính rượu, cứ mỗi lần kính người một ly, bản thân thường uống
cùng một ly, sau khi tan tiệc, tiệc rượu khác mới bắt đầu.
9- Dân tộc Lê.
Dân tộc Lê của đảo Hải Nam có tục rượu cuối hôn lễ,
cũng gọi là rượu thu tịch. Nhà trai bày tiệc rượu này, một mặt đáp tạ những người
bạn ngày hôn lễ giúp cho tài trợ hoặc giúp đở nấu nướng thức ăn; một mặt là để
lắng nghe giáo huấn của các bạn thân. Các người bạn này vừa uống vừa hát, dặn
dò vợ chồng mới cưới phải chăm sóc cho nhau, sinh con trai đẻ con gái, phát triển
gia sản, do bạn thân không ngừng ghé thăm chúc mừng, thường tiệc rượu phải kéo
dài đến 3 ngày 3 đêm, hoặc càng dài hơn.
10- Tộc Môn Ba.
Dân tộc Môn Ba Tây Tạng lúc đón thân, tân lang phải
mang mấy ống trúc rượu, mời tân nương trên đường đi uống 3 lần. Ống trúc rượu
bên cạnh bát vuốt bơ biểu thị may mắn. Trên tiệc kết hôn cậu tân nương mặt đối
diện rượu thịt không ăn không uống, trước tiên chọc khuấy khuyết điểm, nói một
câu liền dùng nắm tay vỗ bàn một cái, nhà tân lang vội vàng dâng lên ha ta (dải
lụa màu trắng có khi vàng, xanh người Tây Tạng tặng khi đón khách quý tỏ lòng
kính trọng-ND) thêm rượu thay đổi thức ăn, mãi đến khi cậu vừa ý, các khách mới
thoải mái ra sức uống, vì đây là khảo nghiệm thành ý của phía nhà trai. Giữa bữa
tiệc tân nương lần lượt kính rượu cho mỗi một người khách. Mọi người còn phải
yêu cầu tân lang tân nương tặng cho nhau một bát rượu đối ẩm, so sánh xem ai uống
nhanh, nghe nói, người nào uống hết trước bát rượu này, người đó quyền lực ở
trong nhà từ nay về sau sẽ là lớn.
11- Dân tộc Bạch.
Tục rượu hôn lễ của dân tộc Bạch Vân Nam cũng có phong
cách đặc sắc. Khi tân lang tân nương dìu vào động phòng, một đôi vợ chồng trung
niên bê một bình rượu mừng có trái ớt bên trong, đầu tiên tiến vào động phòng
cho cô dâu chú rễ uống, sau khi cô dâu chú rễ uống qua, lại cho mọi người có mặt
ở trong sân một ly nhỏ rượu ớt. Chữ cay “辣”
trong lời nói dân tộc Bạch cùng chữ thân “亲”
phát âm giống nhau, uống xong rượu này, biểu thị chúc tân lang tân nương thân mật
không có khe hỡ. Lúc ăn cơm tối, mười mấy người vây thành một bàn lớn bắt đầu
làm tiệc, tân lang tân nương phải cúi chào rót rượu cho mỗi người đang ngồi. Đợi
nhộn nhịp xong rồi, ly rượu trên bàn đều không thấy nữa. Bấy giờ tân lang tân
nương khẩn cầu mọi người đem ly trả cho họ. Mọi người đồng thanh hỏi: các người
dùng nó làm gì? Tân lang tân nương liền ngượng ngùng đỏ mặt trả lời: năm sau,
chúng tôi dùng để nuôi em bé. Trong tiếng cười, mọi người đem ly trả cho cô dâu
chú rễ.
IV/ Tục rượu thờ cúng, mai táng.
1- Dân tộc Mông cổ.
Trên lịch sử dân tộc Mông Cổ tồn tại qua tín ngưỡng
tôn giáo nguyên thủy, tin tưởng trời đất vạn vật đều có thần linh, đối với những
thần linh này, mọi người phải bày tỏ lòng kính trọng thành kính. Phàm uống rượu,
lễ tưới trước tiên, để tế trời đất. Dân tộc Mông Cổ có hoạt động thờ cúng tôn
giáo nguyên thủy tế cột mốc, tế Thượng Tây. Thượng Tây trong tiếng Mông Cổ là Du
ke da shu hoặc tấm lòng của thần cây. Trên nghi thức tế Thượng Tây, phải đem
cây khô, cành cây dùng sợi vải hoa xinh đẹp trang hoàng lại, mọi người tập hợp ở
dưới cây, do thầy ShanManWu thông hiểu kinh sách cầu khấn. Còn có một người giả
làm lão nhân Thượng Tây, ngồi ở dưới cây thần, do một người chủ tế danh tiếng đại
diện toàn thể tín nam tín nữ hướng về ông ta kính rượu, tiến hiến sữa thực phẩm.
Kính rượu là bày tỏ lễ kính đối với thần linh thị tộc.
2- Dân tộc Clao.
Dân tộc Clao cư trú ở Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam,
thường là đem kính bái thần linh tự nhiên và hoạt động thờ cúng hợp lại làm một.
Mùng 3 tháng 3 âm lịch tế thần cây, cũng là một loại nghi thức của người Clao
tưởng nhớ tổ tiên. Khi tế tự, ở trước thần cây phải sắp đặt để 10 cái bát, 6
đôi đũa và một bát cơm ngũ cốc nấu pha trộn, một ly rượu sừng bò chuyên dùng; thức
ăn cúng một đĩa heo và gà nguyên con, nội tạng dồn lại hợp thành. Sau nghi thức
bắt đầu, đốt hương nến, đốt tiền giấy, đốt pháo, người già chủ tế dùng một cái
môi (thìa) gỗ lần lượt hướng tới 10 cái bát rót rượu, cùng lúc miệng đọc lời tế,
chúc lão tổ phù hộ toàn trại người súc vật bình an, ngũ cốc được mùa, tế tổ
xong, mọi người cùng uống rượu ăn cơm.
3- Dân tộc Hà Nhì.
Dân tộc Hà Nhì Vân Nam, mỗi năm khoảng tháng 7 tháng 8
lúc lúa hiện vàng thì phải cử hành một lần nghi thức uống rượu cốc mới long trọng,
Hà Nhì gọi là Che Shou A Ba Duo. Nghi thức này phải chọn một ngày tốt. Ngày
này, mỗi nhà gặt về một bó cây lương thực nhiều hạt chín muồi, treo ngược bên tấm
nan nhỏ tường đầu hồi sau nhà chính, lại tuốt hơn trăm hạt cốc mặt trên dưới, bỏ
vào trong bình rượu ngâm rượu, sau đó sữa soạn một bàn cao lương mỹ vị thức ăn
ngon, mời người lớn đến nhà uống rượu cốc mới. Trên bàn tiệc, chủ nhân rót ra
rượu gạo có ngâm cốc mới, hát lên bài hát chúc rượu. Hát xong, chủ khách cùng uống
rượu cốc mới, ngay cả trẻ sơ sinh cũng phải ở bên miệng thấm một chút nước rượu.
4- Dân tộc Hmông.
Gia đình dân tộc Hmông nghe đến tin việc tang, người
cùng trại thông thường đều phải biếu tặng nhà có tang mấy cân rượu, và gạo
hương nến các loại vật. Nếu như cùng nhà có tang là thông gia, thông gia phải tặng
một hai vò rượu, chàng rễ thì phải tặng đến 20 cân rượu trắng, heo một con, nhà
có tang phải giết gia súc bày tiệc rượu chiêu đãi người viếng thăm. Dân tộc Hà
Nhì của vùng Hồng Giang nghe biết tin việc tang, tức thì mang theo heo, gà, gạo,
rượu đến tế. Dân tộc Hà Nhì vùng Nguyên Giang, người viếng thăm gõ chiêng trống,
lắc chuông, đầu cắm đuôi gà nhảy múa, tên gọi là tẩy quỷ, lúc khóc lúc uống.
Dân tộc Nô vùng Nộ Giang Vân Nam, trong thôn có người bịnh mất, thổi kèn trúc
vài lần báo tang, các nhà nghe tiếng mang theo rượu đến viếng, thầy mo tưới rượu
trong miệng người chết, mọi người uống một ly, gọi là rượu ly biệt.
5- Dân tộc Bố Y.
Dân tộc Bố y Quý Châu cả quá trình mai táng đều thiếu
không được rượu. Thân hữu nhận được tin báo tang, liền phải chuẩn bị rượu lễ
các loại vật đi lễ tế, thân hữu viếng tang xong, nhà có tang phải thêm tế, khóc
thành văn tế. Khi thêm tế, cần phải chuẩn bị rượu lễ, đầu heo v.v…. , sau thêm
tế, nữa đêm 12 giờ bắt đầu, mời ma công vì người chết mở đường, siêu độ người
chết lên trời. Ma công đọc kinh mở đường, chàng rễ thế hệ sau phải thêm rượu
cho ông ta, ma công uống đủ rồi, thì đem rượu thưởng cho chàng rễ nhà có tang,
biểu thị bề trên đem lương thực thưởng cho chàng rễ. Mở đường đến rạng đông giờ
đưa ra huyệt, người đang có tang bố mẹ phải xách một bình rượu, rót ở trong
bát, mời láng giềng hàng xóm giúp khiêng linh cửu mỗi người uống một hớp, mới
khiêng linh cửu lên xuất phát. Đợi sau khi người chết an táng xuống đất, người
đưa tang trở về nhà có tang, người đang có tang bố mẹ thì cần phải lưu lại ở
nghĩa trang, bày một bàn rượu lễ dao đầu chuẩn bị trước kính cho người chết ăn,
người đang có tang bố mẹ phải cùng người chết uống rượu ăn cơm. Ngày thứ ba sau
khi chôn, chàng rễ và mẹ vợ còn phải mang theo rượu lễ vì người chết lễ ba
ngày.
6- Dân tộc Brao.
Dân tộc Brao vùng Sông Giang Vân Nam, sau khi đem người
chết đưa đến nghĩa trang, cùng lúc phải ở bốn góc của áo quan để bốn cặp cây nến
đốt cháy, theo áo quan cùng chôn vào trong huyệt, đồng thời ở phần đầu của người
chết chôn vào một bình rượu, một ly trà, ý nghĩa là để cho người chết sau khi
ăn no rượu thức ăn theo đường của ánh sáng ngọn lửa chiếu sáng đi đoàn tụ cùng
tổ tiên.
7- Dân tộc Phổ Mễ.
Trong nghi thức mai táng của dân tộc Phổ Mễ thì có tập
tục “cấp con dê”. Tức mời thầy mo vì người chết chỉ bảo tên của tổ tiên, dặn dò
đường về tổ tiên, còn dùng một con dê trắng làm dẫn đường người chết. Trong
nghi thức này, cần phải ở trên tai dê rắc rượu và Tsampa, nếu như con dê lắc đầu,
biểu thị người chết vui, cả nhà may mắn, người trong nhà người chết phải quỳ ở
trên đất hướng về con dê dập đầu lạy, lại do thầy mo đem con dê giết chết, dùng
tim dê cúng tế, còn vì người chết đọc “Kinh mở đường”.
8- Dân tộc Cao Sơn.
Nhiều đời dân tộc Cao Sơn Đài Loan có truyền thống
dùng rượu để tế cúng vong linh, dùng cái này để bày tỏ thương nhớ của người sống
đối với người chết. Người dân tộc Cao Sơn cho rằng rượu là một loại vật tốt đẹp
có thể lay động trời đất, cảm động quỷ thần, cho nên họ thường nhờ rượu ngon để
hướng về thần linh cầu khẩn và biểu đạt lòng mong muốn của họ. Trước lúc cấy
gieo hạt, phải “tưới rượu chúc trên trời,
thuận lợi chiếm giữ tiếng chim, sau đó nam nữ cùng hướng tới gieo cấy. Lúc thu
hoạch từng nhà đều là tự tích giữ gia súc rượu lễ tế thần”. Họ không chỉ
dùng rượu cầu khẩn tổ tiên thần linh phù hộ vụ mùa bội thu bình an, mà còn tâm
niệm không quên cung kính mời người đã mất về uống rượu. Mỗi lúc gặp trong thôn
có người chết, thì “kết hoa ở cửa, không
dùng áo quan, nơi cất giữ đồ đựng, áo quần cùng người lạ tính toán chia đều chịu
đựng; Người chết cần phải cùng chôn ở trong sân. Sau 3 ngày, tập hợp thân tộc, lấy
người chết ra, đặt ngồi, từng người tưới chút rượu, vuốt ve lại lần nữa, sau đó
mai táng”. Họ tưới rượu cho người chết, rõ ràng là hy vọng người chết có thể
uống được một hớp rượu sau cùng. Trần Mộng Lâm “Chư La Huyện Ký” cũng ghi chép
viết: người chết, kết hoa ở cửa, chuông kêu khiêng xác, gia đình họ hàng thân thuộc,
từng người tưới rượu miệng người chết, xoa bóp hết lần này đến lần khác, ghi nhớ
vĩnh biệt. Hướng về người chết “tưới rượu miệng người chết” không chỉ đã phản ảnh
nghi lễ mai táng truyền thống người dân tộc Cao Sơn, mà còn cũng đã phản ảnh
tình cảm và tri thức đặc biệt của người dân tộc Cao Sơn đối với rượu.
9- Dân tộc Ơ Luân Xuân.
Dân tộc Ơ Luân Xuân phổ biến tín ngưỡng đạo Sa Man,
tôn thờ các loại thần linh trong thế giới tự nhiên. Thần núi Bai Na Cha là một
thần linh của thợ săn Ơ Luân Xuân sùng bái nhất. Người thợ săn ở trên núi thời
gian săn bắn, mỗi lần uống rượu ăn cơm, đều phải trước tiên dùng ngón tay nhúng
rượu hướng lên trên búng 3 cái, hoặc đem bát rượu giơ cao qua đầu xoay mấy
vòng, trong miệng đọc lời khấn, cầu xin Bai Na Cha thưởng cho nhiều vật săn bắn,
sau đó mới có thể uống rượu ăn cơm.
10- Dân tộc Di.
Người dân tộc Di sau khi chết, thân hữu bất luận xa gần,
đều phải dắt bò dê mang rượu thịt các loại tế phẩm viếng tế người chết. Lúc vào
nhà, nhà có tang cần phải cấp rượu, mời người đó giơ ly uống thương xót, càng uống
càng khóc, càng khóc càng uống, khóc đến lúc hết nước mắt thì làm bài hát số lần
công đức của người chết. Dân tộc Di cho rằng con người sau khi chết linh hồn
không chết, trước kia sau hỏa táng cần đối với linh hồn tiến hành chiêu vong,
trước tiên dùng cọc gỗ, lông dê, cỏ bó lại hình người khoảng 15 tấc, dùng cái
này đại diện linh hồn người chết, do Bi Mo thông hiểu kinh sách niệm chú cho nó, người
nhà lúc ăn thịt uống rượu, trước tiên ở trước tượng này tiến hành lễ tế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Rất cám ơn sự góp ý của bạn